Đến bây giờ dù đã bạc trắng mái đầu, mắt mờ chân chậm, đầu óc lú lẫn nhớ nhớ quên quên nhưng mỗi lần có cơ hội gặp nhau, thế hệ học sinh ngày đó vẫn đọc và ngâm cho nhau nghe về Quê hương của Giang Nam như một phần đời không thể nào quên.
Mở đầu Quê hương là một khổ thơ ăm ắp kỷ niệm tuổi thơ, một tuổi thơ mà ai cũng từng trải qua:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
"Ai bảo chăn trâu là khổ?"
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...
Những hình ảnh như chim hót trên cao, bướm bay cạnh cầu ao và nhất là cái "cô gái nhà bên" ấy là đặc trưng của một tuổi thơ êm đềm thuở thiếu niên của chính bản thân tác giả.

Nhà thơ Giang Nam (1929 - 2023)
ẢNH: TƯ LIỆU
Theo câu chuyện cuộc đời mà Giang Nam kể lại thì nguyên mẫu của nhân vật "cô bé nhà bên" chính là người vợ của ông. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhà thơ Giang Nam là một cán bộ cách mạng hoạt động bí mật ở quê ông - Khánh Hòa. Khi đang làm việc tại cứ của tỉnh ủy Khánh Hòa dưới chân núi Hòn Dù thì ông nhận được tin dữ là người vợ của ông bị quân địch bắt và giết chết trong nhà tù Phú Lợi ở miền Nam. Quá xót thương và đau đớn, ông đã viết nên bài thơ này. Vì thế Quê hương là bài thơ khóc vợ của Giang Nam (tuy nhiên sau này vào cuối năm 1961, khi đang ở căn cứ tại Củ Chi, Sài Gòn, ông bất ngờ biết vợ vẫn còn sống vì tòa án địch không đủ cơ sở buộc tội bà là vợ cộng sản nên trả tự do ngay tại tòa).
Từ đầu đến cuối, Quê hương là một bài thơ trữ tình làm theo thể thơ tự do về chủ đề tình yêu và quê hương. Đồng thời bài thơ cũng là sự kể lại một câu chuyện tình có thực rất lãng mạn. Đó là câu chuyện tình của một chàng trai từ khi còn niên thiếu sống hồn nhiên ở quê nhà gắn liền với hình ảnh một người con gái láng giềng sau này là người yêu, người vợ, người đồng chí của chính tác giả.

Nhà thơ Giang Nam cùng vợ và con gái
Ảnh: TƯ LIỆU GIA ĐÌNH
Với cách thể hiện nồng cháy dưới ngôn ngữ thơ của Giang Nam, hình tượng nghệ thuật "cô gái nhà bên ấy" đã lớn dần theo năm tháng. Khi còn bé ở quê thì cô bé nhìn tác giả bị đánh mà "cười khúc khích" như một sự hồn nhiên tinh nghịch của tuổi thơ. Khi tác giả lên đường đi kháng chiến thì "cô bé nhà bên" - (có ai ngờ!)… cũng vào du kích. Và vẫn với nụ cười khúc khích ấy, khi gặp nhau trên đường kháng chiến, hình ảnh đôi mắt đen tròn của cô gái khiến tác giả "thương thương quá đi thôi".
Vậy là tình yêu của đôi trai gái ấy không chỉ lớn dần theo năm tháng thời gian mà còn lớn dần theo cách mạng. Cuộc sống đã nuôi dưỡng họ và cách mạng đã đem tình yêu đến với họ.
Hình ảnh đẹp nhất và đọng lại mãi với bạn đọc qua các thế hệ là khi tác giả gặp lại cô gái:
… Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa...
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Vẫn "nụ cười khúc khích" ấy nhưng bây giờ đã là một tình yêu nóng bỏng. Đó là đỉnh điểm của một tình yêu trong sáng.

Bìa tập thơ Quê hương của Giang Nam
ẢNH: TƯ LIỆU
Khổ cuối của bài thơ là một nỗi đau xé lòng của tác giả khi nhận được tin "cô gái nhà bên" bấy giờ đã là người vợ thân yêu của mình bị quân địch bắt và giết chết:
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Bài thơ Quê hương kết thúc bằng những câu thơ đầy bi thương nhưng không bi lụy. Sự chết chóc đau đớn đã hun đúc thêm lòng yêu quê hương đất nước của tác giả.
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi...
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi
Chính vì những câu thơ cuối mang đậm vẻ bi thương này mà vào năm 1961, khi xét giải thưởng thơ báo Văn nghệ, trong hội đồng xét giải có nhiều ý kiến đề nghị trao giải nhất cho bài thơ Quê hương nhưng cũng có những ý kiến nói rằng trong bối cảnh đất nước đang chiến tranh ác liệt bài thơ có thể gây ảnh hưởng bi quan đến tinh thần chiến đấu của chiến sĩ nên đề nghị chỉ nên trao giải ba. Cuối cùng một giải pháp dung hòa đã đạt được sự nhất trí cao: Quê hương được tặng giải nhì về thơ báo Văn nghệ năm 1961.
Quê hương là bài thơ hay nhất trong cuộc đời sáng tác của Giang Nam. Năm 2007, bài thơ này được bình chọn là một trong số 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20 của Việt Nam.
Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, quê quán xã Ninh Bình, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
Ông tham gia Việt Minh từ tháng 8.1945, làm công tác thông tin tuyên truyền ở xã rồi lên tỉnh làm Phó trưởng công ty Thông tin Khánh Hòa. Vào năm 16 tuổi khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Giang Nam đã tham gia kháng chiến. Tháng 5.1948, nhà thơ được giao công tác tại Tòa Văn hóa Thông tin, ông có nhiệm vụ viết bài và làm biên tập chính cho các tờ báo. Sau năm 1954 ông hoạt động ở miền Nam, làm Phó ban Tuyên huấn Khánh Hòa, Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam, ủy viên tiểu ban văn nghệ Trung ương cục, trưởng ngành văn. Có thời gian làm Trưởng tiểu ban văn nghệ, ủy viên Ban Tuyên huấn khu Sài Gòn - Gia Định.
Từ sau 1975, Giang Nam là đại biểu Quốc hội khóa VI, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa II, III. Tổng Biên tập báo Văn nghệ, Chủ tịch Hội Văn nghệ Phú khánh, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Ông nghỉ hưu và sống ở Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Ngoài thơ Giang Nam còn sáng tác truyện ngắn. Các bút danh: Giang Nam, Châu Giang, Hà Trung, Lê Minh (sử dụng trên báo chí công khai xuất bản ở miền Nam từ 1955 đến 1960).
Ông qua đời ngày 23.1.2023 tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa do tuổi cao sức yếu.
Cùng đọc lại bài thơ:
Quê hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
"Ai bảo chăn trâu là khổ?"
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...
***
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên - (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại...
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...
***
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa...
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi...
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi
Bình luận (0)