Biến chứng muộn sau tiêm filler

24/12/2021 04:06 GMT+7

Tiêm filler không đúng kỹ thuật có thể gây tắc mạch dẫn đến mù mắt, nhồi máu não, nhiễm trùng huyết...

Khoa Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ - Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) vừa qua đã tiếp nhận một nữ bệnh nhân (BN) 24 tuổi, vào viện trong tình trạng vùng má phải sưng nề tấy đỏ, kèm theo sốt. Kết quả siêu âm cho thấy hình ảnh ổ áp xe căng bóng sắp vỡ. BN này cho biết có tiêm filler vào vùng má và cằm cách đây 3 năm tại một cơ sở spa.

Tiêm filler là một thủ thuật ngoại khoa và có những nguy cơ biến chứng nhất định

shutterstock

Đa số bệnh nhân tiêm ở cơ sở không phép

Th.S-BS Vũ Hồng Chiến, công tác tại Khoa Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ - Bệnh viện Bạch Mai, người khám lâm sàng cho nữ BN trên, cho biết BN bị nhiễm trùng muộn vùng mặt sau tiêm chất làm đầy. Nếu không được xử trí kịp thời, ổ áp xe có thể lan rộng, viêm tấy lan tỏa phần mềm, hoặc vỡ ra, để lại sẹo xấu, sẹo lõm. Bên cạnh đó, nhiễm trùng vùng mặt nếu không được xử lý đúng cách, vi khuẩn có thể theo đường máu vào các tĩnh mạch trong sọ hoặc gây nhiễm trùng máu.

Với BN trên, các bác sĩ đã chủ động trích rạch khối áp xe vùng má để loại bỏ tổ chức mủ dưới da. “Di chứng để lại với BN này ít nhất là một vết sẹo lõm vùng má. Điều đáng lo lắng nữa là BN từng bị áp xe chỗ tiêm vùng má trái cách đây 2 năm. Do đó, những vùng tiêm khác có thể tiếp tục viêm tấy và tái nhiễm trùng”, bác sĩ Chiến chia sẻ.

Cơ sở được cấp phép tiêm filler không phải là các spa, chăm sóc da hay các cơ sở cắt tóc gội đầu… mà phải là các phòng khám, bệnh viện da liễu hoặc phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ.

Trước khi tiêm filler, khách hàng cần lựa chọn những cơ sở chuyên khoa được cấp phép, các bác sĩ có chứng chỉ hành nghề được phép tiêm filler và lựa chọn những loại filler đảm bảo chất lượng đã được cấp phép (bởi FDA, Bộ Y tế). Tránh chạy theo quảng cáo mà không tìm hiểu đầy đủ có thể khiến tiền mất tật mang.

TS-BS Phạm Thị Việt Dung

Cũng theo bác sĩ Chiến: “Đối với các trường hợp tiêm filler, đa số BN bị biến chứng thường tiêm ở các cơ sở không phép; người thực hiện không phải là bác sĩ có chứng chỉ hành nghề, không được đào tạo về tạo hình - thẩm mỹ hoặc da liễu, không có đủ kiến thức về filler, không được đào tạo về kỹ thuật tiêm”.

Bác sĩ Chiến lưu ý: Tiêm filler là một thủ thuật ngoại khoa và có những nguy cơ biến chứng nhất định. Biến chứng do tiêm filler có thể chia làm 2 nhóm chính: liên quan đến kỹ thuật tiêm, và sử dụng chất làm đầy không được cấp phép.

Trong đó, biến chứng do kỹ thuật tiêm nghiêm trọng nhất có thể gặp phải là tiêm vào mạch máu. Filler có thể theo mạch máu gây tắc mạch, tắc mạch não gây nhồi máu não, tắc mạch võng mạc gây mù, tắc mạch máu ở da gây hoại tử da… Kỹ thuật tiêm không đảm bảo vô khuẩn dẫn đến nhiễm trùng tại chỗ ở vùng tiêm. Những nhiễm trùng này thường lan tỏa theo các đường chọc kim trong quá trình tiêm.

Với biến chứng do tiêm các chất không được cấp phép là chất như silicon lỏng và các chất làm đầy không rõ nguồn gốc, không được xử lý tốt có thể ngấm vào mô, gây viêm tấy, kích ứng, nhiễm khuẩn, tạo viêm, xơ, loét… Tình trạng này có thể xuất hiện sớm hoặc muộn tùy từng BN.

Để lại nhiều di chứng về chức năng và thẩm mỹ

TS-BS Phạm Thị Việt Dung, Trưởng khoa Phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ, Bệnh viện Bạch Mai, lưu ý BN sau tiêm filler có biểu hiện sớm của tắc mạch như: mất thị lực, đột quỵ hay yếu nửa người, hoại tử, nhiễm trùng vùng tiêm, thường liên quan đến kỹ thuật tiêm cần đến ngay cơ sở y tế để được xử lý cấp cứu kịp thời.

Nhiều trường hợp các biến chứng có biểu hiện muộn như nhiễm trùng, viêm loét, vón cục… (liên quan đến kỹ thuật tiêm hoặc chất liệu làm đầy không đảm bảo, không được cấp phép) lan tỏa trong mô mềm tại vùng tiêm. Việc điều trị các biến chứng muộn này thường mất nhiều thời gian và để lại nhiều di chứng cả về mặt chức năng và thẩm mỹ.

Với những BN đã tiêm các loại chất làm đầy không rõ nguồn gốc nhưng may mắn chưa xuất hiện các biến chứng, cũng nên thăm khám định kỳ bởi các bác sĩ chuyên khoa tạo hình, thẩm mỹ hoặc bác sĩ da liễu. BN cần khám, siêu âm, đôi khi cần chụp cộng hưởng từ… để đánh giá tính chất của tổ chức tiêm vào mô, mức độ thâm nhiễm của các chất này đối với các tổ chức xung quanh. Từ đó, các bác sĩ sẽ cân nhắc việc có nên lấy bỏ chất làm đầy này hay không, tiên lượng có lấy bỏ được hết hay không và đánh giá xem cần làm gì để tái tạo các mô tổ chức bị viêm, thâm nhiễm.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.