Bộ Tài chính đang đề nghị xây dựng dự án luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Chứng khoán, luật Kế toán, luật Kiểm toán độc lập, luật Ngân sách nhà nước, luật Quản lý, sử dụng tài sản công, luật Quản lý thuế, luật Dự trữ quốc gia.
Theo dự thảo đề cương, với sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Quản lý thuế, một trong những điểm đáng chú ý là sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 66 theo định hướng: đưa đối tượng cá nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tại khoản 7 Điều 124 luật Quản lý thuế vào khoản 1 Điều 66 luật Quản lý thuế cho thống nhất.
Đồng thời, bổ sung thêm đối tượng bị tạm hoãn xuất cảnh gồm: cá nhân là đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, cá nhân là chủ hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.
Trong phần báo cáo đánh giá tác động của chính sách, Bộ Tài chính nêu rõ, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 luật Quản lý thuế, "người nộp thuế" bao gồm cả tổ chức và cá nhân. Do đó, việc tạm hoãn xuất cảnh đối với chủ thể này như quy định tại khoản 1 Điều 66 là không phù hợp với thực tiễn.
Việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh cần được thực hiện đối với các chủ thể là cá nhân người nộp thuế và các cá nhân khác là đại diện theo pháp luật của tổ chức nộp thuế (gồm: chủ hộ kinh doanh, cá nhân là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, cá nhân là người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, cá nhân kinh doanh), chứ không chỉ áp dụng riêng đối với cá nhân người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như quy định tại khoản 7 Điều 124.
Cưỡng chế thu nợ thuế không bắt buộc thực hiện tất cả đối tượng
Nội dung khác liên quan sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Quản lý thuế được Bộ Tài chính nêu tại dự thảo là bãi bỏ quy định khoản 7 Điều 124 luật Quản lý thuế để thống nhất đối tượng quy định tại luật Quản lý thuế trong trường hợp xuất cảnh nhằm nâng cao hiệu quả thu nợ thuế.
Về vấn đề liên quan quy định biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung quy định cơ quan thuế chỉ áp dụng biện pháp (kê biên tài sản và biện pháp thu bên thứ 3) khi đã có đầy đủ thông tin, điều kiện để thực hiện cưỡng chế không bắt buộc phải thực hiện tất cả các đối tượng. Điều này giúp cơ quan thuế tập trung nguồn lực vào các đối tượng trọng tâm, trọng điểm có khả năng thu hồi nợ nhằm tăng cường hiệu quả công tác cưỡng chế nợ thuế.
Ngoài ra, bỏ các quy định mang tính định tính như "một số biện pháp", "không hiệu quả" vì cơ quan thuế khó xác định và thực hiện. Bổ sung nguyên tắc đối với người nộp thuế có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn thì có thể lựa chọn áp dụng ngay biện pháp cưỡng chế phù hợp trong 7 biện pháp cưỡng chế để kịp thời thu tiền thuế nợ vào ngân sách nhà nước.
Trong phần báo cáo đánh giá tác động của chính sách, Bộ Tài chính nêu nhiều thực tiễn khó khăn, bất cập của việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản và biện pháp thu bên thứ 3 như: trong quá trình xác minh thông tin thì khó xác định quyền sở hữu tài sản của đối tượng nộp thuế để cưỡng chế hoặc việc xác định tỷ lệ trách nhiệm của người nộp thuế nợ thuế với tỷ lệ đóng góp của doanh nghiệp hoặc xác định tỷ lệ tài sản đối với các tài sản có đồng sở hữu.
Hầu hết tài sản của người nộp thuế đang được thế chấp tại các tổ chức tín dụng hoặc thời gian sử dụng của tài sản thấp. Việc thực hiện rất phức tạp và mất nhiều thời gian, công chức cơ quan thuế không được đào tạo về nghiệp vụ thẩm định giá trị tài sản kê biên…
Theo Bộ Tài chính, việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản và biện pháp thu bên thứ 3 rất phức tạp, phụ thuộc nhiều các đơn vị liên quan. Do đó, cơ quan thuế không có đủ nguồn lực để kịp thời thực hiện tất cả các đối tượng bị cưỡng chế.
Các quy định mang tính chất định tính như "một số biện pháp", "không hiệu quả" nên cơ quan thuế rất khó xác định và thực hiện; chưa có nguyên tắc đối với người nộp thuế có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn thì có thể lựa chọn áp dụng ngay biện pháp cưỡng chế phù hợp trong 7 biện pháp cưỡng chế để kịp thời thu tiền nợ thuế cho ngân sách nhà nước.
Khoản 1 Điều 66 luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 quy định về hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh như sau: "Người nộp thuế thuộc trường hợp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế; trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh".
Trong khi đó, khoản 7 Điều 124 luật Quản lý thuế quy định: "Cá nhân là người đại diện theo pháp luật của người nộp thuế phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế trước khi xuất cảnh và có thể bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh".
Bình luận (0)