Ngày 27.2, tại TP.Cần Thơ, Bộ GD-ĐT tổ chức Hội nghị phát triển GD-ĐT vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Dự hội nghị có Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hầu A Lềnh, cùng nhiều lãnh đạo bộ, ngành, lãnh đạo các tỉnh, thành ĐBSCL; các trường đại học, cao đẳng; Sở GD-ĐT của 13 tỉnh, thành ĐBSCL và TP.HCM.
NHIỀU CHỈ SỐ DẦN TIỆM CẬN VỚI MỨC BÌNH QUÂN CỦA CẢ NƯỚC
Theo Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn, giáo dục ĐBSCL đã có bước tiến bứt phá trong 10 năm (2011 - 2020). Nhiều chỉ số giáo dục quan trọng của vùng được cải thiện, dần tiệm cận với mức bình quân của cả nước. Khoảng cách về chất lượng giáo dục của vùng ĐBSCL so với những địa phương khác đã được thu hẹp đáng kể.
Dù còn rất nhiều khó khăn nhưng nếu nhìn về chất lượng giáo dục, đặc biệt là giáo dục THPT, qua các kỳ thi tốt nghiệp, có thể thấy chất lượng của ĐBSCL đang xếp thứ 2 trong 6 vùng. Chính vì vậy, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn đề nghị từ nay không nên gọi ĐBSCL là "vùng trũng" giáo dục nữa.
Ngoài ra, theo đánh giá của Bộ GD-ĐT, ở cấp THCS, với trung bình 684 học sinh (HS) trên 1 cơ sở giáo dục, vùng có HS cao hơn trung bình của toàn quốc và đứng thứ 2 khi so sánh với các khu vực khác. Ở cấp THPT, vùng có số lượng HS tiệm cận mức trung bình chung của toàn quốc với tỷ lệ 911,5 HS trên 1 cơ sở.
Đặc biệt, so với năm học 2010 - 2011, vùng ĐBSCL chỉ có 13 cơ sở giáo dục đại học (ĐH), nhưng đến năm 2020, đã là 21 cơ sở giáo dục ĐH; 10/13 tỉnh, thành phố đã có trường ĐH, trong đó có 4 phân hiệu và 8 cơ sở giáo dục ĐH ngoài công lập. Riêng tại Cần Thơ, hiện có 5 trường ĐH và 1 phân hiệu. Các trường ĐH trong khu vực hiện đang đào tạo các trình độ từ ĐH đến tiến sĩ, với 1.475 lượt ngành đào tạo ĐH, 115 lượt ngành đào tạo thạc sĩ và 40 lượt ngành đào tạo tiến sĩ.
VẪN CÒN NHIỀU TỒN TẠI
Dù có bước phát triển vượt bậc, nhưng Bộ GD-ĐT cũng nhìn nhận tình hình GD-ĐT vùng ĐBSCL vẫn còn tồn tại một số hạn chế bởi nhiều lý do đặc thù. Không ít nơi còn rải rác điểm trường vì bị kênh rạch, cồn, bãi ngang chia cắt. Tỷ lệ huy động người tham gia học xóa mù chữ của khu vực chỉ đạt 0,46%, thấp hơn so với tỷ lệ huy động của toàn quốc (2,34%). Nhiều trường còn thiếu phòng bộ môn, phòng chức năng, phòng làm việc. Tình trạng thiếu giáo viên vẫn còn xảy ra cục bộ ở một số nơi. ĐBSCL sẽ cần nhiều thời gian phấn đấu để đạt mức bình quân chung cả nước về tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia cấp tiểu học và THCS, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học.
ĐBSCL là khu vực có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo (14,9%) và tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ ĐH trở lên (6,8%) thấp nhất cả nước theo báo cáo kinh tế thường niên năm 2022. Mặc dù quy mô đào tạo tăng trong 10 năm qua, song mới chỉ đáp ứng một phần nhu cầu được tiếp cận giáo dục ĐH của người dân.
CẦN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ
Trước thực tế này, đại diện nhiều tỉnh, thành đã đề xuất với Bộ GD-ĐT những vấn đề khó khăn riêng của từng đơn vị.
Ông Trần Quang Bảo, Giám đốc Sở GD-ĐT Kiên Giang, đề xuất những trường có nhiều cấp học nên bố trí mỗi cấp học 1 phó hiệu trưởng phụ trách (không phân biệt hạng trường) để thuận lợi trong quản lý, điều hành đơn vị đạt hiệu quả cao.
Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Bạch Vân, Giám đốc Sở GD-ĐT Trà Vinh, cho biết địa phương còn gặp nhiều khó khăn trong việc mua sắm đầu tư công, vì chỉ chủ yếu dựa vào nguồn vốn địa phương (cụ thể là nguồn xổ số kiến thiết - PV). Vì vậy, Trà Vinh mong Bộ GD-ĐT hỗ trợ nguồn lực để có thể thực hiện đúng lộ trình Đề án bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2017 - 2025.
Bà Nguyễn Thị Quyên Thanh, Phó chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long, cho rằng với tính chất riêng biệt của vùng ĐBSCL, những chương trình, dự án đầu tư Bộ GD-ĐT cần xem xét xây dựng tiêu chí ưu đãi riêng cho ĐBSCL như khu vực miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, cũng cần thiết xây dựng đề án trường đạt chuẩn quốc gia cho vùng ĐBSCL và những cơ chế, chính sách liên quan đến cơ sở đào tạo nghề, học nghề, người làm công tác phổ cập…
VẪN GIỮ ĐƯỢC CÁI "CHẤT" KHÔNG MÀU MÈ, ÍT HÌNH THỨC
Kết luận tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho rằng, phía trước giáo dục ĐBSCL sẽ là thách thức "kép", khi vừa phải đổi mới, vươn cao cùng cả nước, vừa phải đảm bảo tối thiểu các chỉ số về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy học, tỷ lệ huy động trẻ đến lớp, xóa mù chữ... Tuy nhiên, cơ sở vật chất hạn chế không có nghĩa là chất lượng giáo dục thấp. Điều này đã được chứng minh bằng chính nỗ lực phi thường của ngành giáo dục ĐBSCL trong những năm qua.
Để vượt qua thách thức kép, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho rằng, giáo dục ĐBSCL cần có cái nhìn lạc quan hơn, phân tích và phát huy chính những ưu điểm, lợi thế của khu vực. Đó là đội ngũ thầy, cô giáo tâm huyết, trách nhiệm, cống hiến hết lòng với nghề. Phẩm chất giáo dục ở ĐBSCL vẫn giữ được cái "chất" không màu mè, ít hình thức, luôn giữ được nền nếp học đường.
Đặc biệt, với những cơ chế, chính sách, đầu tư đang được triển khai cho ĐBSCL, trong vài năm tới, đây sẽ là khu vực phát triển kinh tế năng động của cả nước. Đó cũng là thuận lợi lớn để giáo dục ĐBSCL phát triển toàn diện hơn.
Tập trung vào 5 nhiệm vụ và giải pháp
Vùng ĐBSCL có 1 thành phố trực thuộc Trung ương là TP.Cần Thơ và 12 tỉnh gồm Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau.
Báo cáo tình hình phát triển GD-ĐT vùng ĐBSCL và nhiệm vụ, giải pháp phát triển GD-ĐT đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Ngọc Thưởng cho biết: Năm học 2019 - 2020, vùng ĐBSCL có tổng số 2.002 cơ sở giáo dục mầm non với 584.099 trẻ em; 5.671 cơ sở giáo dục tiểu học với 1.251.886 HS; 1.341 cơ sở giáo dục THCS với 994.697 HS; 350 cơ sở giáo dục THPT với 433.072 HS. Toàn vùng có 176.173 giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông.
Quan điểm phát triển của giáo dục vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được xác định là: Phát triển GD-ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội với tiến bộ khoa học và công nghệ, phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển GD-ĐT từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa GD-ĐT.
Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển GD-ĐT đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách để đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người.
GD-ĐT vùng ĐBSCL sẽ tập trung vào 5 nhiệm vụ và giải pháp gồm: quy hoạch mạng lưới cơ sở GD-ĐT; tiếp cận giáo dục; điều kiện bảo đảm chất lượng GD-ĐT; nâng cao chất lượng giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên; nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
Bình luận (0)