Các nhà khoa học mong muốn có kit phát hiện nhanh ung thư

19/01/2022 22:16 GMT+7

Các nhà khoa học hàng đầu thế giới về y khoa và lĩnh vực liên quan thảo luận về triển vọng công nghệ giúp người dân bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ, chẳng hạn như công nghệ phát hiện nhanh bệnh ung thư.

Chiều nay 19.1, tại Hà Nội, các chuyên gia y khoa hàng đầu thế giới cùng một số nhà khoa học nghiên cứu trong các lĩnh vực liên quan đã có cuộc trao đổi về chủ đề “Tương lai của sức khoẻ toàn cầu”.

Tọa đàm là hoạt động trong chuỗi sự kiện tuần lễ giải thưởng VinFuture (từ 18 đến 21.1). Chủ trì phiên tọa đàm là GS Đặng Văn Chí, Giám đốc Khoa học Viện Nghiên cứu ung thư Ludwig (Mỹ), một bác sĩ - nhà nghiên cứu, nhà sinh học ung thư và nhà ung thư - huyết học nổi tiếng.

GS Đặng Văn Chí

Thanh Lâm

Tham gia trực tiếp và trực tuyến cuộc tọa đàm có nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới nghiên cứu trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ (chẳng hạn như GS Katalin Karikó, người đặt nền móng cho công nghệ mRNA để sản xuất vắc xin mRNA phòng Covid-19).

Công nghệ phát hiện ung thư sớm: tăng cơ hội sống của người bệnh nghèo

Một trong số các vấn đề được các vị khách mời của tọa đàm nhắc đến nhiều là khả năng cải thiện cơ hội tiếp cận y tế công bằng trong bối cảnh nền khoa học công nghệ đang có những bước phát triển vượt bậc.

Theo các nhà khoa học, nhờ tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ mà nền y khoa toàn cầu đã đạt được những thành tựu xuất sắc trong công cuộc bảo vệ sức khoẻ nhân loại, trong đó những ứng phó với đại dịch Covid-19 là một minh chứng tiêu biểu. Dù ban đầu khi mới xuất hiện vi rút SARS-CoV-2 giới khoa học toàn cầu hơi bị “sốc” nhưng rất nhanh sau đó hàng loạt vắc xin ra đời (rất nhanh so với việc tìm ra vắc xin phòng chống HIV).

Các nhà khoa học tham gia tọa đàm "Tương lai sức khoẻ toàn cầu" (người phụ nữ trong ảnh là GS Katalin Karikó, người đặt nền móng cho công nghệ mRNA để sản xuất vắc xin mRNA phòng Covid-19

Thanh Lâm

Đến với tọa đàm qua một clip phát trực tuyến, GS Sangeeta N. Bhatia, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu điều trị ung thư bằng y học nano, ĐH Massachusetts, cho rằng những tiến bộ của y khoa toàn cầu không chỉ dừng lại như hiện nay mà còn tiếp tục đạt được những thành tựu đáng ngạc nhiên nhờ khoa học công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực điều trị ung thư.

Hiện nay, việc chữa trị cho bệnh nhân ung thư là một gánh nặng có tính toàn cầu, chiếm 2/3 số ca tử vong trên toàn thế giới và sẽ tiếp tục tăng trong thế kỷ tới. Đáng tiếc là các ca tử vong tập trung ở các nước nghèo. Ví dụ, cũng là trẻ em bị bạch cầu, nhưng ở các nước có nền khoa học công nghệ phát triển thì nhiều em được chữa khỏi, còn ở nước nghèo thì tỷ lệ tử vong cao.

“Cần phát hiện công nghệ mới cho ngành ung bướu toàn cầu. Hiện có thể ngăn chặn khoảng 50% số ca tử vong do ung thư nhờ có thể tiêm ngừa, cai thuốc lá, xét nghiệm sàng lọc, nhưng việc này đang được thực hiện tại các nước phát triển. Cần quan tâm hơn đến công nghệ phát hiện ung thư sớm cho 50% còn lại, chẳng hạn giá như có thể có kit xét nghiệm nhanh phát hiện ung thư như phát hiện Covid-19!”, GS Bahatia chia sẻ.

Cũng theo GS Bhatia, Trung tâm Nghiên cứu điều trị ung thư bằng y học nano, ĐH Massachusetts đã phát triển công nghệ nano, hạt nano bơm vào mạch máu, thẩm thấu vào tế bào khối u; cảm biến nano nhận biết emzim trong tế bào ung thư… Tiến tới sẽ tiêm cho bệnh nhân, sau đó đợi 1 tiếng để biết kết quả trên điện thoại, gửi đến trung tâm chẩn đoán từ xa… Phát minh cho thấy hiệu quả tốt trên động vật. Trung tâm đã thiết lập công ty khởi nghiệp để phát triển giai đoạn 2.

“Cần có bộ óc đa dạng hơn để triển khai khoa học hiện hành, đồng thời tạo ra công nghệ mới tại các nền kinh tế chưa phát triển”, GS Bhatia nói.

Công nghệ khoa học càng phát triển, người nghèo sẽ hưởng lợi

Theo GS Drew Weissman, Trường Y, ĐH Pennsylvania (Mỹ), thời gian tới chắc thế giới còn nhiều đợt dịch hơn nữa và “nhiệm vụ” tiếp theo của các nhà khoa học là tạo ra một loại vắc xin phổ quát chống lại các loại vi rút phổ biến trên thế giới.

Còn trước câu hỏi của GS Chí là liệu có thể dùng trí tuệ nhân tạo để chẩn đoán mô hình vi rút tiếp theo, để giới y khoa chuẩn bị trước, thì nhà toán học Vũ Hà Văn (ĐH Yale, Mỹ) trả lời: “AI (trí tuệ nhân tạo) có thể được ứng dụng để mô hình hoá vi rút mới, tôi hy vọng từ đó tạo kết quả thiết thực”.

Cũng theo GS Vũ Hà Văn, một ứng dụng lớn lao của AI vào ngành y khoa là chính xác hoá trong chẩn đoán và điều trị. Hiện tại, AI và dữ liệu lớn đã được dùng nhiều trong y học. Y khoa là khoa học lâu đời nhất trong các khoa học, nhưng cũng là lĩnh vực có tính cá nhân hoá rất cao, bệnh nhân đặt niềm tin tuyệt đối vào bác sĩ, trong khi mỗi bác sĩ lại có mức độ kinh nghiệm khác nhau.

GS Vũ Hà Văn

Thanh Lâm

Bác sĩ giỏi là người có nhiều kinh nghiệm, từng điều trị nhiều trường hợp giống nhau. Nhưng giờ đây những kinh nghiệm đó được tập hợp thành dữ liệu trong máy tính, và đó là căn cứ để tạo ra AI “trợ lý” cho các bác sĩ.

“Máy tính có thể chứa hàng tỉ hồ sơ của bệnh nhân mà bác sĩ thì không tài nào nhớ hết. Với sức mạnh của điện toán, thuật toán thông minh có thể khai thác nguồn dữ liệu đó, chỉ cần tra cứu là có thông tin. Đó là trợ lý mơ ước trong tương lai”, GS Vũ Hà Văn nhận xét.

GS Vũ Hà Văn còn cho rằng, AI còn giúp giảm khoảng cách giàu nghèo trong việc tiếp cận dịch vụ y tế. Thông thường, bác sĩ giỏi thường làm việc ở bệnh viện “giàu”, nhưng nhờ AI mà bác sĩ trẻ, ít kinh nghiệm, làm việc ở các vùng sâu vùng xa có thể khám chữa bệnh giỏi hơn, vì thế mà khoảng cách chất lượng dịch vụ giữa các bệnh viện lớn với bệnh viện bé ở vùng hẻo lánh được thu hẹp.

“Hiện nay, chúng tôi (Viện Nghiên cứu BigData - PV) mang công nghệ AI tới các bệnh viện nhỏ, nhờ đó chất lượng dịch vụ ở đây bước đầu đã được cải tiến”, GS Văn cho biết.

Qua một clip gửi tới cuộc toạ đàm, GS Robert Green, chuyên gia về y khoa và di truyền học tại ĐH Harvard, cũng cho rằng y học ở Mỹ hay Việt Nam, hay bất kỳ đâu trên thế giới, cũng đều không được phân bổ đồng đều và công bằng, đều có sự phân biệt lớn trong chăm sóc sức khỏe. Sẽ có một nhóm người được, nhóm kia thì không, trong cách đầu tư vào y tế hoặc một loại hình chăm sóc sức khỏe nào đó.

Nhưng y học chính xác (nhờ vào dữ liệu lớn và AI) đưa ra viễn cảnh hướng tới ngăn ngừa, tiên đoán, giữ gìn sức khỏe thay vì ốm rồi mới điều trị. Do đó, các chính phủ sẽ phải đầu tư ít hơn, thực hiện ít ca phẫu thuật hơn, dân số khỏe mạnh hơn, trị liệu ít hơn. Khi người ta không phải chi nhiều tiền chăm sóc sức khỏe thì người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ y tế, bất kể địa vị xã hội, dân tộc, kinh tế như thế nào.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.