Ngoài cách xưng hô thứ bậc trong gia đình ngày nay, xin giới thiệu thêm cách gọi xưa từ thời phong kiến, do hoàn cảnh lịch sử, ít nhiều gì cũng chịu ảnh hưởng bởi Trung Hoa. Phần lớn thứ bậc ở đây trích từ sách Nhật dụng thường đàm của Phạm Đình Hổ (1768-1839), loại từ điển giải thích chữ Hán bằng chữ Nôm, do đó chúng tôi liệt kê kèm theo chữ Nôm để quý vị tiện tra cứu khi cần. Nếu lấy bản thân mình (tôi) làm chuẩn thì các thế hệ trong gia đình sẽ có thứ bậc như sau:
- Kị (忌): đời thứ 4 trên mình là đời kị (xem ảnh dưới): kị ông/kị bà. Nếu dùng từ Hán Việt thì cao tổ phụ là ông kị, cao tổ mẫu là bà kị. Ở miền Nam, cách gọi sơ (初) tương ứng với kị. Sơ là cha mẹ của ông bà cố (ông sơ, bà sơ). Tiên tổ là ông bà các đời trước.
Đời thứ tư trên mình là đời kị |
Nhật dụng thường đàm |
- Cụ (具): đời thứ ba trên mình là đời cụ (cụ ông/cụ bà), còn gọi là “cố”(故/固), tức cha mẹ của ông bà mình (ông cố/bà cố). Nếu dùng từ Hán Việt thì tằng tổ phụ là ông cụ, tằng tổ mẫu là bà cụ, tằng bá phụ là ông cụ bác, tằng bá mẫu là bà cụ bác, tằng thúc phụ là ông cụ chú, tằng thúc mẫu là bà cụ thím, tằng cô là bà cụ cô; tằng điệt (chắt) gọi mình là cụ chú, cụ bác; tằng điệt phụ (chắt dâu) gọi mình cụ chú, cụ bác; tằng điệt nữ (chắt gái) gọi mình cụ chú, cụ bác.
- Ông (翁) bà: đời thứ hai trên mình là ông và bà. Nếu dùng từ Hán Việt thì tổ là ông; tổ bá phụ là ông bác; thúc phụ là ông chú; điệt tôn (cháu) gọi mình là ông chú, ông bác; điệt tôn phụ (cháu dâu) gọi mình ông chú, ông bác; điệt tôn nữ (cháu gái) gọi mình là ông chú, ông bác; ngoại tổ phụ là tổ ông ngoại; ngoại thái cữu là ông vợ; thân gia ông là ông nhà dâu gia; tôn thái ông là bố tôn ông thầy; tôn thái mẫu là mẹ ông thầy.
Trong gia đình người Việt có 3 thế hệ sống chung nhà (bao gồm ông bà, cha mẹ, con cái) thì gọi là “tam đại đồng đường”, nếu 4 thế hệ sống chung thì gọi là “tứ đại đồng đường”, 5 thế hệ là “ngũ đại đồng đường”. |
SHUTTERSTOCK |
- Cha (吒): đời thứ nhất trên mình là cha. Thứ bậc theo từ Hán Việt như sau: phụ thân là cách con gọi cha; thân phụ, sinh phụ là cha ruột; kế phụ là cha ghẻ, cha kế; nghĩa phụ, dưỡng phụ là cha nuôi; nghĩa phụ cũng là cha đỡ đầu; cố phụ là cha chết chưa chôn; hiển khảo là cha chết đã chôn; tiên phụ là cha chết đã lâu; thứ mẫu là hầu của cha; bá phụ là bác (anh cha); thúc phụ là chú (em cha); cô là cô (chị em với cha); ngoại cữu là cha vợ; chấp bá là bạn cha (cũng là cha của bạn mình); canh bá là bạn đồng tuế với cha hoặc cha bạn đồng tuế của mình; niên bá là bạn đồng khoa của cha hoặc cha bạn đồng khoa của mình; quyến điệt là cách mình xưng hô với bạn cha, hoặc cha của bạn mình; nhân quyến điệt là cách mình xưng hô với cha chồng, chị vợ, cha vợ, anh vợ; cữu là cha chồng.
Tổ mẫu là bà |
Nhật dụng thường đàm |
Trong gia đình: Mẹ (媄): đời thứ nhất trên mình là mẹ. Cách xưng hô Hán Việt như sau: song thân là cha mẹ; mẫu thân, nội thân là mẹ; đích mẫu là mẹ chính (con dòng chính và thứ gọi vợ lớn của cha); thứ mẫu là mẹ thứ (con dòng chính và thứ gọi vợ lớn của cha); kế mẫu là mẹ ghẻ; dưỡng mẫu là mẹ nuôi; ngoại cô là mẹ vợ; nhân bá mẫu là mẹ chồng của chị vợ; thân gia thái mẫu là mẹ nhà dâu gia; tôn thái mẫu là mẹ ông thầy; gia mẫu là mẹ tôi; lệnh từ là mẹ người; cô là cô, cũng là mẹ chồng; cô chương là mẹ chồng nàng dâu; giá mẫu là mẹ có chồng khác; xuất mẫu là mẹ bị cha từ bỏ; cố mẫu là mẹ chết chưa chôn; hiển tỉ là mẹ chết đã chôn; tiên mẫu là người mẹ đã chết. (Còn tiếp)
Bình luận (0)