Cơ hội bứt tốc của kinh tế Việt Nam

30/01/2025 15:00 GMT+7

Cải cách thể chế giai đoạn mới và có chiến lược, chính sách thích đáng để tận dụng hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước sẽ hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh và đưa Việt Nam lên vị trí cao trên vũ đài thế giới.

Có nhiều yếu tố cho phép ta hy vọng một kỷ nguyên phát triển mới cho Việt Nam bắt đầu từ năm Ất Tỵ 2025. Năm 2025 sẽ thấy cái mốc Việt Nam đạt mức phát triển trung bình cao rất cận kề. Đây là cái mốc có ý nghĩa tạo khí thế để chúng ta nỗ lực đẩy nhanh quá trình phát triển nhắm tới mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045. Quyết tâm gần đây của lãnh đạo về việc chống lãng phí, gỡ các điểm nghẽn thể chế để khơi thông nguồn lực cũng là bước khởi đầu quan trọng. Nhìn từ bên ngoài ta cũng thấy biến động địa chính trị kinh tế hiện nay tuy đối với thế giới nói chung là bất ổn nhưng đối với Việt Nam là cơ hội hiếm có để tận dụng nguồn lực (vốn, công nghệ) và thị trường. Cải cách thể chế giai đoạn mới và có chiến lược, chính sách thích đáng để tận dụng hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước sẽ hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh và đưa Việt Nam lên vị trí cao trên vũ đài thế giới.

Việt Nam đang đứng ở đâu trên bản đồ kinh tế Á châu ?

Nhờ chính sách Đổi mới, sau vài năm dò dẫm và thử nghiệm, kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức khá cao từ những năm đầu thập niên 1990. Trong giai đoạn khoảng 30 năm tính đến năm 2019 là năm trước khi có tác động của đại dịch Covid-19, tăng trưởng bình quân năm của Việt Nam là 6,5%. Thời gian xảy ra đại dịch tốc độ giảm xuống dưới 3% nhưng kinh tế hồi phục nhanh với 8% năm 2022 và giữ tốc độ 5% năm 2023. Năm 2024 Việt Nam dự báo sẽ tăng trưởng khoảng 7%, là một trong vài nền kinh tế tăng trưởng cao nhất khu vực Á châu. Trong thời gian 20 năm tới, nếu kinh tế phát triển trung bình độ 7% thì Việt Nam sẽ đạt mức thu nhập cao vào năm 2045.

Cơ hội bứt tốc của kinh tế Việt Nam- Ảnh 1.

Việt Nam đã xuất siêu với thế giới hơn 12 tỉ USD năm 2022

ảnh: Độc Lập

Một nước thành công trong quá trình phát triển kinh tế sẽ kinh qua 3 mức thu nhập: trung bình thấp, trung bình cao và thu nhập cao. Hình 1 đánh dấu 3 mức thu nhập theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới và cho thấy diễn tiến thành quả phát triển của Việt Nam và một số nước Á châu. Việt Nam đã vượt Ấn Độ từ cuối thập niên 1990, gần đây vượt Philippines và sắp theo kịp Indonesia. Việt Nam đã đạt mức phát triển trung bình thấp vào năm 2008 và đang đến gần mức phát triển trung bình cao (chỉ một, hai năm nữa). Từ mức trung bình cao này, khảo sát cơ cấu kinh tế, tìm ra dư địa tăng hiệu suất, khai thông nguồn lực trong nước, tận dụng cơ hội quốc tế hiếm có hiện nay, Việt Nam có nhiều triển vọng chuyển từ thu nhập trung bình cao lên thu nhập cao vào năm 2045.

Cơ hội bứt tốc của kinh tế Việt Nam- Ảnh 2.

Thành quả phát triển trong thời gian qua đạt được do có tiến triển trong tích lũy tư bản và sự chuyển dịch các yếu tố sản xuất (như lao động) từ khu vực năng suất thấp sang khu vực năng suất cao. Tích lũy tư bản được đẩy mạnh nhờ những cải cách thể chế khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tích lũy tư bản chủ yếu thực hiện trong công nghiệp và dịch vụ. Do đó, lao động dịch chuyển từ nông nghiệp sang hai khu vực đó và cơ cấu GDP cũng thay đổi tương ứng.

Tuy thành quả phát triển trong thời gian qua đáng ghi nhận nhưng cơ cấu kinh tế nhiều mặt còn yếu, còn nhiều dư địa để tăng năng suất lao động, cần cải cách thể chế để phát triển nhanh hơn, tạo điều kiện đạt mục tiêu năm 2045. Có thể nêu ra hai vấn đề lớn.

Thứ nhất, công nghiệp hóa là đầu tàu phát triển của giai đoạn hiện nay nhưng cơ cấu còn mỏng, lắp ráp và gia công là chủ đạo nên năng suất lao động thấp. Đặc tính này phản ánh rõ nét trên cơ cấu cán cân ngoại thương của Việt Nam. Như Biểu 1 cho thấy, năm 2022 Việt Nam xuất siêu với thế giới hơn 12 tỉ USD, nhưng chủ yếu là xuất siêu hàng tiêu thụ và hàng tư bản (máy móc các loại), trong đó xuất siêu nhiều với Mỹ. Trong khi đó ta phải nhập siêu nhiều đối với các sản phẩm trung gian (sơ chế, linh kiện) và nhập siêu với Trung Quốc, Hàn Quốc. Như vậy Việt Nam nhập sản phẩm trung gian từ Trung Quốc và Hàn Quốc, gia công, lắp ráp rồi xuất khẩu thành phẩm sang Mỹ. Cơ cấu này làm năng suất lao động trong công nghiệp không cao và Việt Nam dễ trở thành đối tượng bảo hộ mậu dịch dưới thời chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump.

Thứ hai, năng suất lao động của khu vực kinh tế ngoài nhà nước rất thấp, chỉ độ 25% của khu vực nhà nước và khu vực FDI. Khu vực ngoài nhà nước năng suất rất thấp là vì ngoài một số doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn, còn lại tuyệt đại bộ phận là nông nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp và dịch vụ. Khu vực này còn chiếm tới khoảng 70% tổng lao động nên các cải cách kinh tế sắp tới cần xem đây là mũi đột phá. Đặc biệt, các đơn vị sản xuất kinh doanh cá thể, phi chính thức không thể đầu tư quy mô lớn và không có khả năng đổi mới sáng tạo. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thì gặp khó khăn trong việc tiếp cận với vốn, với mặt bằng để đầu tư và trực diện với các thủ tục hành chính phức tạp. Nói chung, mũi đột phá thể chế hiện nay là làm cho doanh nghiệp trong nước lớn mạnh để tăng năng suất lao động, để tận dụng thời cơ quốc tế đang thuận lợi.

Thời cơ mới của Việt Nam

Địa chính trị kinh tế thế giới đang chuyển động mạnh, nổi bật bởi hai điểm. Thứ nhất, đối đầu kinh tế Mỹ - Trung tiếp diễn mạnh mẽ, nhất là khi ông Donald Trump trở lại nắm chính quyền ở Mỹ. Mỹ sẽ đánh thuế 60% đối với hàng nhập từ Trung Quốc và tiếp tục cấm hoặc hạn chế doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Trung Quốc trong những ngành công nghệ cao. Trung Quốc đã trở thành công xưởng toàn cầu và Mỹ là thị trường lớn nhất thế giới. Sản xuất và tiêu thụ của hai nền kinh tế lớn nhất thế giới liên kết hữu cơ với rất nhiều nước khác. Chiến tranh kinh tế Mỹ - Trung do đó ảnh hưởng mạnh đến nhiều nước, làm đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu. Một hệ quả là một bộ phận sản lượng công nghiệp, một phần của chuỗi cung ứng phải chuyển từ Trung Quốc sang các nước khác để tránh rủi ro. Thứ hai, kinh tế Trung Quốc đang chuyển sang giai đoạn mới, gặp nhiều khó khăn, phải giảm tốc. Cho đến năm 2012, suốt 30 năm kinh tế tăng trưởng bình quân 10%/năm nhưng giai đoạn 10 năm tiếp theo giảm còn 6% và 2 năm gần đây dưới 5%. Dự báo của các nhà kinh tế đều không lạc quan về hướng đi sắp tới của Trung Quốc.

Cơ hội bứt tốc của kinh tế Việt Nam- Ảnh 3.

Hiện đại hóa công nghiệp giúp Việt Nam nắm bắt nhiều cơ hội để phát triển kinh tế

ảnh: Phạm Hùng

Cùng với hai khuynh hướng nói trên, những thay đổi về chính sách đối với người nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc làm cho nước này ngày càng mất vị trí là trung tâm sản xuất của các công ty đa quốc gia. Nhiều công ty đa quốc gia chẳng những không hoặc hạn chế đầu tư mới mà còn đóng cửa nhiều nhà máy, rút khỏi hoạt động đã có tại Trung Quốc.

Cơ hội bứt tốc của kinh tế Việt Nam- Ảnh 4.

Dòng chảy đầu tư sẽ dịch chuyển từ Trung Quốc sang thị trường nào? Hiện nay Ấn Độ và Việt Nam là hai nước được các công ty đa quốc gia đánh giá cao. Ấn Độ có dân số đông nhất thế giới và kinh tế đang tăng trưởng cao là thị trường tiềm năng lớn. Việt Nam cũng là nền kinh tế năng động nhưng so với Ấn Độ còn có thêm hai lợi thế. Một là ở gần Trung Quốc nên ngoài việc tiếp cận dễ dàng với thị trường lớn này, việc chuyển dịch cơ sở sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam cũng thuận lợi. Hai là Việt Nam tham gia nhiều tổ chức thương mại khu vực, tiếp cận được thị trường rộng lớn hơn Ấn Độ. Trong các tổ chức hợp tác thương mại hiện nay, Ấn Độ chỉ tham gia IPEF (Khung hợp tác vì thịnh vượng của khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương) trong khi Việt Nam, ngoài IPEF còn tham gia hầu hết các tổ chức khác như RCEP (Đối tác toàn diện kinh tế khu vực), CPTPP (Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương) và các hiệp định thương mại tự do (FTA) hoặc đối tác kinh tế (EPA) với ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và EU. Tham gia vào nhiều tổ chức hợp tác thương mại là thế mạnh của Việt Nam, dễ mở rộng thị trường xuất khẩu, dễ thu hút FDI, dễ tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ngoài ra, uy tín ngày càng tăng trên thế giới và quan hệ ngoại giao đa phương cũng làm cho Việt Nam trở thành địa điểm đầu tư tin cậy. Trong 3 năm nay, Việt Nam nâng quan hệ ngoại giao lên cấp cao nhất (Đối tác chiến lược toàn diện) với Hàn Quốc, Mỹ và Nhật Bản, là 3 nước chủ yếu trên thị trường thế giới và là những đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam.

Cải cách mới, chiến lược mới, nắm bắt cơ hội mới để đạt mục tiêu 2045

Để nắm bắt cơ hội mới này, từ hai vấn đề cơ bản của kinh tế Việt Nam đã phân tích, tôi đề xuất hai đột phá, gồm một chiến lược và một cải cách thể chế.

Chiến lược đột phá liên quan đến cơ cấu công nghiệp phản ánh trên cán cân ngoại thương ở Biểu 1. Cụ thể là tích cực chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao, đẩy mạnh sản xuất thay thế những mặt hàng đang nhập khẩu từ Trung Quốc và Hàn Quốc, thoát khỏi cơ cấu công nghiệp lắp ráp để tăng năng suất lao động và củng cố nền tảng công nghiệp. Tận dụng sự quan tâm và đánh giá thuận lợi của các công ty đa quốc gia, Việt Nam nên chọn lựa dự án, định hướng dòng thác FDI mới theo hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp. Đồng thời đa dạng hóa thị trường xuất khẩu sang những nước Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại tự do, tránh tập trung quá lớn vào thị trường Mỹ.

Cải cách thể chế hiện nay là quyết tâm của lãnh đạo, được dân chúng đồng tình, bao gồm nhiều lĩnh vực, nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi đề xuất mũi đột phá trực tiếp là trong khu vực doanh nghiệp. Có hai nội dung. Một là tích cực hỗ trợ, hướng dẫn các đơn vị sản xuất kinh doanh cá thể hoặc siêu nhỏ trở thành những doanh nghiệp có tổ chức ngày càng lớn mạnh mới có khả năng đổi mới sáng tạo và đầu tư có hiệu quả. Hai là hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) trong việc tiếp cận với nguồn vốn và đất để đầu tư. Cả hai nội dung này đòi hỏi phải mạnh dạn cải cách thể chế, giảm chi phí hành chính, giảm cơ chế "xin - cho" và phát huy tinh thần trách nhiệm của quan chức. Qua cải cách thể chế, doanh nghiệp trong nước mới lớn mạnh, mới có thể liên doanh được với các dự án FDI, mới tự chủ tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng của doanh nghiệp đa quốc gia. Đây cũng là chính sách gián tiếp làm giảm sự tùy thuộc kinh tế vào FDI như hiện nay.

Chiến lược và cải cách thể chế đột phá theo nội dung trên là tiền đề để tăng năng suất, là cơ sở để xây dựng nền kinh tế tự chủ trong hội nhập và tận dụng có hiệu quả các nguồn lực do cơ hội mới mang lại.

Địa kinh tế chính trị vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đang chuyển động theo hướng có lợi cho nước ta. Việt Nam nên tận dụng cơ hội hiếm có này để đưa nền kinh tế vào kỷ nguyên mới nhằm đạt mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.