Đến năm 1698, năm mà chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào đặt nền hành chính tại đây, dân số đã có hơn 40 vạn hộ, trên một địa bàn rộng 1.000 dặm. Rất tiếc là công chúa đã không thọ đến thời điểm đó để thấy tận mắt thành quả, công lao của mình.
Nhưng không phải những thành quả ấy đến đó là ngừng lại, mà còn đi xa hơn nữa. Nhờ có mối tình cảm công chúa đã khéo vun quén từ đầu mà tình hữu nghị giữa 2 dân tộc Đại Việt - Chân Lạp ngày càng gắn bó.
Trước sự đe dọa của quân Xiêm luôn rình rập, chực có cơ hội là sang xâm chiếm, hoặc khi có sự tranh chấp nội bộ mà không hòa giải được, có sự yêu cầu của phe chính thống, triều đình Thuận Hóa luôn sẵn sàng và nhanh chóng đem quân sang giúp đỡ Chân Lạp giữ vững nền độc lập và củng cố vương quyền.
Khi mọi việc đã xong, quân Đại Việt sẵn sàng rút về, không hề đòi hỏi một sự đền ơn đáp nghĩa nào cả, mặc dầu trong giao chiến không khỏi có những binh sĩ Đại Việt bỏ mình trên đất khách, không mang về bất cứ một vật gì của hoàng gia và dân chúng Chân Lạp, không có bất cứ nhân vật nào của hoàng gia Chân Lạp phải sang sống làm con tin ở Thuận Hóa. Nhiều lần như vậy, không phải một, hai lần.
Theo thiên tính của con người, mang ơn thì trả ơn mới không áy náy lương tâm. Đó là suy nghĩ và hành động của các vua chúa và triều đình Chân Lạp. Mỗi lần quốc gia hữu sự, nhờ đến sự giúp đỡ của Đại Việt, triều đình cũng như nhân dân Đại Việt không hề ngần ngại, huy động ngay hàng ngàn, hàng vạn quân lính, sử dụng hàng ngàn ghe thuyền chuyển quân, chuyển lương, hành quân hàng ngàn dặm đường, không kể nắng mưa, giông bão, đi ngày đi đêm, vì việc quân không thể chậm trễ. Khi lâm trận thì hăng say chiến đấu, không ngại nguy hiểm, không sợ hy sinh.
Chính vì nhận thấy như thế, nên mỗi lần được giúp đỡ giải nguy, vua và triều đình Chân Lạp lại cắt một vùng đất hoang hóa, dân cư thưa thớt không mặn mà gì đối với họ, biếu cho vua chúa Đại Việt, coi như món quà hữu nghị. Điều đó giải thích vì sao vùng đất Nam bộ lại thuộc về nước Việt Nam, mà tổ tiên ta trong quá khứ chưa hề đem quân đến đánh chiếm.
Ngày nay, ai cũng công nhận vùng đất Nam bộ là vựa lúa của cả nước, không những hằng năm thu hoạch được hàng chục triệu tấn lúa, đủ nuôi dân mà còn dư để xuất khẩu. Không phải tự nhiên mà được như vậy.
Khi được làm chủ vùng đất này, thì nơi đây là vùng sình lầy, chua phèn, hoang hóa, chỉ có cây năn, cây lác, cây dừa nước là sống được. Nhờ các lớp lưu dân người Việt, thế hệ này kế tiếp thế hệ khác, với bản tính cần cù, siêng năng, chịu thương chịu khó, chống chọi với rắn độc, thú dữ, đem sức lao động ra khai phá, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, đổ mồ hôi đổi lấy chén cơm mới được như ngày nay.
Ai là người dân Nam bộ, ai là người dân TP.HCM đang sống trong hạnh phúc, sung sướng, nhìn thấy những cánh đồng thẳng cánh cò bay, nặng trĩu lúa vàng, những đầm ao nuôi thủy sản tôm cá xuất khẩu hàng nghìn tấn, những vườn cây trĩu quả xuất khẩu hằng năm hàng ngàn tấn, thu về hàng tỉ ngoại tệ làm giàu cho đất nước; những tòa nhà chọc trời sang trọng, những con đường trải nhựa thênh thang, đêm đêm đèn điện soi sáng khắp hang cùng ngõ hẻm, có biết nhờ ai mà được như thế? Người đó là công chúa Ngọc Vạn, đã từng hy sinh tuổi thanh xuân đầy thơ mộng, đi tiên phong khai sơn phá thạch cho sự nghiệp mở mang bờ cõi của Tổ quốc.
Bình luận (0)