Ngày 12.4, TAND TP.Hà Nội mở phiên xét xử sơ thẩm vụ án thất thoát hơn 830 tỉ đồng tại dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 Công ty CP gang thép Thái Nguyên (TISCO).
Do tin tưởng cấp trên
Vụ án có 19 bị cáo, đều là cựu lãnh đạo, cán bộ TISCO hoặc Tổng công ty thép Việt Nam (VNS). Trong đó, có 14 người bị xét xử về tội “vi phạm quy định của nhà nước về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và 5 người bị xét xử về tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Trong 19 bị cáo được triệu tập đến tòa, Đậu Văn Hùng, cựu Tổng giám đốc VNS, xin vắng mặt do sức khỏe yếu.
Trong ngày 12.4, HĐXX đã thẩm vấn các bị cáo là cựu lãnh đạo TISCO và VNS. Là người đầu tiên HĐXX gọi xét hỏi, bị cáo Trần Trọng Mừng, cựu Tổng giám đốc TISCO, không đồng tình với cáo buộc giữ vai trò chủ mưu, cầm đầu.
Bị cáo này trình bày dự án mở rộng sản xuất gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2 được Chính phủ giao cho TISCO làm chủ đầu tư. Dự án giai đoạn 2 gồm 22 gói thầu nhưng gói thầu lớn nhất được TISCO ký với Tập đoàn khoa học công nghệ và thương mại luyện kim Trung Quốc (MCC) là gói thầu EPC số 01, trị giá hơn 160 triệu USD. Đây là dạng hợp đồng trọn gói, chìa khóa trao tay không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, TISCO phát hiện MCC chậm tiến độ nên đã đốc thúc, đồng thời có báo cáo lên VNS, Bộ Công thương và chuẩn bị phương án kiện MCC ra tòa án quốc tế. Thực tế, các bên liên quan cũng ký hợp đồng pháp lý với hãng luật ở Singapore để thay mặt chủ đầu tư trao đổi với MCC nếu hợp đồng không được thực hiện theo tiến độ sẽ chấm dứt.
Được hỏi vì sao MCC vi phạm nhưng TISCO không có biện pháp để dừng hợp đồng, thu hồi tạm ứng, bị cáo Mừng khai đã có đề xuất xử lý vi phạm của nhà thầu “nhưng nhận được chỉ đạo từ VNS, Bộ Công thương là tìm mọi biện pháp để tháo gỡ khó khăn”. Việc điều chỉnh tách phần C hợp đồng được thực hiện căn cứ vào hướng dẫn Thông tư 09 của Bộ Xây dựng. Và việc điều chỉnh hợp đồng tăng thêm 15,57 triệu USD là dựa vào số liệu do Tổng công ty CP xây dựng công nghiệp Việt Nam (VINAINCON) tính toán. Các bị cáo có báo cáo HĐQT và được VNS thẩm định, báo cáo Chính phủ đó là số liệu đáng tin cậy.
Bị cáo Mừng khai thêm, việc TISCO đề xuất VINAINCON làm nhà thầu phụ cho dự án là do một thứ trưởng Bộ Công thương khi đó trực tiếp giới thiệu. Bị cáo Mừng nói và cho rằng sau khi Hợp đồng EPC số 01 của dự án được tách ra và điều chỉnh về giá thì bị cáo đã nghỉ hưu nên không nắm được nội dung cụ thể.
Trong khi đó, bị cáo Trần Văn Khâm, cựu Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc TISCO, cũng khẳng định biết rõ nguyên tắc hợp đồng EPC là trọn gói, song việc bị cáo ký hợp đồng tách hợp đồng phần C và ký hợp đồng tăng thêm 15,57 triệu USD, ký văn bản chấp thuận cho nhà thầu phụ VINAINCON tham gia dự án do “thừa kế” từ người tiền nhiệm Trần Trọng Mừng. “Bị cáo khi đó mới lên chức, chưa bao giờ làm dự án lớn, không kinh nghiệm gì nên tin tưởng vào anh em”, ông Khâm khai.
“VINAINCON không đủ năng lực và nhân lực để triển khai, đã họp rất nhiều nhưng không đảm bảo tiến độ và đã tự dừng việc thi công, trả lại công việc cho TISCO. Sau đó, trước sức ép của tiến độ, với trách nhiệm trước đội ngũ, dự án đã chậm được 2 năm rồi, chưa triển khai được hạng mục nào nên bị cáo cho nhân viên đi nghiên cứu năng lực của 13 nhà thầu phụ khác; và do vướng mắc, khó khăn từ nhiều mặt nên dự án vẫn chậm tiến độ”, bị cáo Khâm khai, đồng thời cho biết, hậu quả thiệt hại 830 tỉ đồng của dự án là “tích tụ từ đầu đến khi bị cáo làm đều ảnh hưởng đến tiến độ dự án, gây phát sinh chi phí”.
Trách nhiệm như thế nào thì để tòa quyết
Khai báo trước tòa, bị cáo Mai Văn Tinh, cựu Chủ tịch HĐQT VNS, thừa nhận có việc TISCO báo cáo nhà thầu MCC vi phạm nhưng chỉ có đề nghị tìm mọi cách để tháo gỡ chứ không có việc dừng hay hủy hợp đồng. Về việc đưa VINAINCON vào tham gia dự án, bị cáo này khai: “Dưới thì xin tổng công ty nhưng chúng tôi không có quyền nên lại xin ý kiến của cấp trên. Bị cáo có nhận tờ trình của tổng giám đốc chọn VINAINCON, bị cáo giao cho Ban Kiểm sát kiểm tra rồi trình. Sau khi các thành viên HĐQT đồng ý hết thì bị cáo gửi Thủ tướng. Khi cấp trên đồng ý rồi thì giao cho cấp dưới thực hiện”, ông Tinh khai.
“Tại thời điểm đó, bị cáo không nhận thức được, tâm nguyện là mong dự án nhanh vào sản xuất, không có vấn đề gì khác. Giờ mới biết nó gây thất thoát thì bị cáo thấy mình có trách nhiệm”, bị cáo Tinh khai tiếp. Khi bị HĐXX truy “ai chịu trách nhiệm về thất thoát này thì bị cáo Tinh đáp: “Cái này tòa quyết chứ bị cáo không biết. Bị cáo là người đứng đầu, làm việc tập thể nên cũng chịu trách nhiệm”.
Theo cáo trạng của Viện KSND tối cao, dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 do TISCO làm chủ đầu tư; HĐQT VNS là cấp quyết định đầu tư, được triển khai từ năm 2007 với tổng mức đầu tư dự kiến 3.843 tỉ đồng.
Tháng 8.2008, sau hơn 11 tháng triển khai dự án, nhà thầu MCC đã tự ý dừng hợp đồng, rút hết người về nước trong khi chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, chưa chọn nhà thầu phụ, chưa triển khai thi công bất kỳ hạng mục nào của gói thầu.
Thay vì dừng hợp đồng với nhà thầu, thậm chí hủy đấu thầu, các bị cáo là lãnh đạo TISCO và VNS khi đó đã đàm phán với nhà thầu, đồng thời đề nghị các đơn vị hữu quan cho kéo dài thời gian thi công và tăng giá hợp đồng EPC hơn 138 triệu USD không có cơ sở. Ngoài ra, các bị cáo đã tách phần C trong hợp đồng EPC để cho nhà thầu phụ tham gia… Hành vi của các bị cáo đã làm thiệt hại hơn 830 tỉ đồng tài sản nhà nước.
|
Bình luận (0)