Hội nghị nhằm đánh giá những việc đã làm được, đặc biệt những kết quả nổi bật, những hạn chế, khó khăn, bài học kinh nghiệm và đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai thực hiện Nghị quyết 120.
Dịp này, PV Báo Thanh Niên đã có trao đổi nhanh với Th.s Nguyễn Hữu Thiện, Chuyên gia độc lập về sinh thái vùng ĐBSCL, xung quanh những kết quả cũng như thách thức được nhận diện sau 3 năm triển khai Nghị quyết 120.
|
PV Thanh Niên: Sau 3 năm thực hiện nghị quyết 120/NQ-CP tại ĐBSCL, ông thấy có sự chuyển nào đáng kể chưa?
Đây là thắc mắc chính đáng bởi nhìn bên ngoài có vẻ chưa có những tác động tới mức có thể nhìn thấy được từ sau Nghị quyết 120 (NQ120) của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, cần hiểu rằng NQ120 là định hướng ở tầm chiến lược cho ĐBSCL, cần phải có những quy hoạch, kế hoạch cụ thể để triển khai trên thực tế và việc soạn thảo các quy hoạch, kế hoạch này cần độ chín chắn, tốn thời gian. Trong 3 năm qua, để triển khai NQ120, Chính phủ đã cho soạn thảo Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững ĐSBCL, phê duyệt tại Quyết định 324 của Thủ tướng ngày 2 tháng 3, 2020 và Quy hoạch tích hợp ĐBSCL do tư vấn HaskoningDHV-GIZ đang trong quá trình soạn thảo, dự kiến hoàn tất trong vài tháng tới.
ĐBSCL cần làm gì để đẩy nhanh và thực hiện hiệu quả Nghị quyết 120?
NQ120 cùng với Luật quy hạch 2017, Quyết định 593 của Chính phủ về liên kết vùng là một sự hội tụ hiếm có về chính sách. Có thể nói đây là “bộ ba chính sách vàng” mang lại vận hội mới để phát triển mang tính thực chất, bền vững về lâu dài cho ĐBSCL. Chính sách tốt là một chuyện, chất lượng của việc thực hiện là một chuyện khác. Do đó, thay vì nghĩ rằng cần làm gì để thúc đẩy nhanh việc thực hiện hiệu quả NQ120 tại ĐBSCL, tôi nghĩ ngược lại rằng làm sao để những chính sách tốt như thế không bị thực hiện theo kiểu “dục tốc” để trở thành “bất đạt” thì sẽ rất đáng tiếc. Ngoài việc cả ba chính sách này đều ở tầm chiến lược, đòi hỏi phải có những kế hoạch cụ thể bên dưới để thực hiện, thì cả ba đều hàm chứa tư duy hiện đại ở tầm quốc tế rất mới đối với Việt Nam.
Ông nói tới “bộ ba chính sách vàng”, vậy có nhiều trở ngại khi triển khai không?
Việc triển khai bộ ba chính sách này, ĐBSCL sẽ gặp ba trở ngại chính như sau. Thứ nhất là, sự lúng túng trong cách làm mới. Cách làm quy hoạch tích hợp rất lạ lẫm đối với Việt Nam và sẽ không tránh khỏi lúng túng. Phương pháp quy hoạch cũ trước đây, trước khi có Luật quy hoạc 2017, là phương pháp quy hoạch theo địa phương, theo ngành một cách riêng lẻ. Từng ngành, từng địa phương theo đuổi và tối đa hóa mục tiêu theo tầm nhìn của ngành, của địa phương mình mà ít có sự lồng ghép, hài hòa hóa lẫn nhau trong một tổng thể. Quy hoạch tích hợp là cách làm quy hoạch định hướng chiến lược phát triển cho sự vận hành của tổng thể, trong đó sự phát triển của từng ngành được dung hòa với nhau cùng lúc. Ví dụ khi ta muốn làm ra một chiếc xe đạp, ta có thiết kế tổng thể của chiếc xe đạp trước, sau đó mới thiết kế từng bộ phận thì khi ráp lại cihếc xe mới vận hành trơn tru được. Còn nếu chúng ta lập kế hoạch sản xuất từng bộ phận riêng không quan tâm tới tổng thể thì khi ráp lại các bộ phận không tương thích, chồng chéo, mâu thuẫn. Cụ thể, chúng ta đã rất quen thuộc với cách làm quy hoạch cụ theo thời hạn 5 năm, kèm theo những chỉ tiêu cụ thể phải phấn đấu đạt được trong thời hạn đó. Từng ngành, từng địa phương đưa ra chỉ tiêu phấn đấu riêng của mình thì khó mà tương thích với tổng thể. Sẽ giật mình khi biết rằng, ĐBSCL trước đây đã từng có hơn 2500 bản quy hoạch theo ngành, theo địa phương, không ăn khớp với nhau.
|
Trở ngại thứ hai là quán tính tư duy cũ. Thay vì đầu tư cho con đường mới, quán tính tư duy cũ là muốn đầu tư dặm vá con đường cũ để tiếp tục đi theo con đường đó. Cứ đi đường cũ thì sẽ tiếp tục phải “vật lộn” để duy trì cho được lối đi cũ. Làm sao giải quyết cho được chuyện hạn, chuyện mặn, để tiếp tục sản xuất ra số lượng lớn lúa gạo, trái cây, thậm chí trong mùa khô ở ven biển mà không bị ảnh hưởng, thiệt hại gì bởi hạn-mặn. Làm sao canh tác liên tục ba vụ, vắt đất cho ra lúa gạo thật nhiều mà đất không cạn kiệt, người dân không bỏ đồng bằng ra đi. Làm sao để bao đê chống lũ cho ruộng đồng khô ráo để trồng lúa mà lũ không gây ngập nơi khác. Làm sao đắp bít cửa sông cho khỏi mặn, biển không liên lạc được với sông mà biển vẫn khỏe mạnh vẫn cho nhiều cá tôm. Làm sao đắp bít sông ngòi để trữ nước ngọt mùa khô cho nông nghiệp mà sông ngòi không thành dòng sông đen. Làm sao sông ngòi đen mà không sử dụng nước ngầm. Làm sao tiếp tục khai thác nước ngầm mà không bị sụt lún để đồng bằng không bị chìm dưới mực nước biển. Toàn là các bài toán nan giải. Trong khi đó, nếu chúng ta rẽ sang lối đi mới, thích ứng thay vì chống chọi, thì hàng loạt những chuyện đang là vấn đề sẽ không còn là vấn đề nữa và số vấn đề cần giải quyết sẽ ít hơn.
Trở ngại thứ ba, những vướng mắc ở thực địa trong quá trình thay đổi. Trong thời gian dài phát triển nông nghiệp chạy theo sản lượng và loay hoay chống chọi với thiên nhiên suốt năm, mùa lũ chống lũ, mùa hạn chống hạn năm này sang năm khác thì chúng ta đã tạo ra một hệ thống công trình điều tiết nước khổng lồ trên toàn đồng bằng. Trong các vùng ngọt hóa chẳng hạn, sinh kế người dân đã chuyển sang canh tác theo nước ngọt. Trong bối cảnh mới, các vùng ngọt hóa sẽ không thể tồn tại lâu. Nhưng muốn chuyển đổi ngược lại như xưa sẽ khó khăn vì sẽ ảnh hưởng sinh kế người dân trong thời gian đầu. Người nông dân nhỏ lẻ sẽ cần hỗ trợ vì không đủ nguồn lực để chuyển đổi dù họ có mong muốn.
Được biết Bộ KH-ĐT đang dần hoàn thành quy hoạch tích hợp ĐBSCL theo tinh thần Nghị quyết 120, ông đánh giá thế nào về quy hoạch tích hợp này?
Đây là lần đầu tiên, ĐBSCL có một quy hoạch tích hợp đa ngành cho toàn vùng, mang tính lịch sử. Bên cạnh những vấn đề về đầu tư cải thiện đường xá giao thông, hệ thống logistics, Quy hoạch tích hợp lần này sẽ giải quyết một vấn đề mang tính trọng tâm là chuyển hướng nền nông nghiệp sang hướng giảm thâm canh, chú trọng chất lượng, chuỗi giá trị, gia tăng chế biến, cải thiện logistics, cải thiện tiếp cận thị trường, phát huy các sinh kế khác để giảm số vụ lúa; và tôn trọng quy luật tự nhiên, xem nước mặn, nước lợ, nước ngọt đều là tài nguyên.
|
Dẫu vậy, quy hoạch tích hợp lần này sẽ có nhiều bối rối vì là lần đầu tiên từ bỏ phương pháp quy hoạch đơn ngành, cục bộ địa phương, chuyển sang phương pháp đa ngành, tích hợp vào một quy hoạch cấp vùng duy nhất cho toàn đồng bằng. Tuy quy hoạch này, chỉ giải quyết được những vấn đề nội tại của ĐBSCL, không giải quyết được những vấn đề từ bên ngoài đến, như tác động của thủy điện thượng nguồn, nhưng sẽ giúp đồng bằng khỏe mạnh hơn, có sức để đối phó với tác động từ bên ngoài hơn.
Xin cảm ơn ông!
Đình Tuyển ghi
Bình luận (0)