Chính quyền địa phương được tổ chức thế nào?
Luật Tổ chức chính quyền địa phương có hiệu lực từ ngày 1.3 đã quy định chi tiết về tổ chức đơn vị hành chính và thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới và đổi tên.
Theo điều 2 của luật này, chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính cấp xã, huyện, tỉnh gồm có Hội đồng nhân dân (gọi tắt là HĐND) và UBND.
Trường hợp Quốc hội có quy định về việc không tổ chức cấp chính quyền địa phương tại đơn vị hành chính cụ thể, thì chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính đó là UBND.
Chính quyền địa phương ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã.
Chính quyền địa phương ở đô thị gồm chính quyền địa phương ở thành phố trực thuộc trung ương, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phường, thị trấn.
Chính quyền địa phương tại đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định khi thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đó.
Vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Chính quyền địa phương phối hợp, phát huy vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật, giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của chính quyền địa phương.
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham dự các kỳ họp HĐND cùng cấp, được mời tham dự phiên họp của UBND cùng cấp khi bàn về các vấn đề có liên quan. Người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham dự kỳ họp HĐND, phiên họp của UBND cùng cấp khi bàn về các vấn đề có liên quan.

Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới và đổi tên đơn vị hành chính cấp tỉnh
ẢNH: NHẬT THỊNH
HĐND, UBND thực hiện chế độ thông báo tình hình của địa phương cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp.
Chính quyền địa phương có trách nhiệm lắng nghe, giải quyết và trả lời các kiến nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương. Ngoài ra còn tham gia xây dựng chính quyền và ý kiến, kiến nghị của nhân dân địa phương do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổng hợp và chuyển đến.
Điều kiện để thành lập, nhập, chia đơn vị hành chính
Theo điều 8, việc thành lập, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải bảo đảm các điều kiện sau:
- Phù hợp quy hoạch có liên quan đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Bảo đảm lợi ích chung của quốc gia, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền địa phương các cấp; phát huy tiềm năng, lợi thế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của từng địa phương.
- Bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
- Bảo đảm đoàn kết dân tộc, phù hợp với các yếu tố truyền thống lịch sử, văn hóa của địa phương; tạo sự thuận tiện cho nhân dân.
- Phải căn cứ vào tiêu chuẩn của đơn vị hành chính phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Việc giải thể đơn vị hành chính chỉ thực hiện trong các trường hợp sau đây:
- Do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của địa phương hoặc của quốc gia.
- Do thay đổi các yếu tố địa lý, địa hình tác động đến sự tồn tại của đơn vị hành chính đó.
Ai quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính?
Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới và đổi tên đơn vị hành chính cấp tỉnh. Còn Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ở cấp huyện, cấp xã.
Theo điều 10, Chính phủ tổ chức xây dựng đề án thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới và đổi tên đơn vị hành chính cấp tỉnh trình Quốc hội. UBND cấp tỉnh tổ chức xây dựng đề án ở cấp huyện, cấp xã trình Chính phủ để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Đề án phải được lấy ý kiến nhân dân ở những đơn vị hành chính cấp xã chịu ảnh hưởng trực tiếp. UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến nhân dân về chủ trương bằng các hình thức phù hợp theo quy định của Chính phủ.
Sau khi có kết quả lấy ý kiến nhân dân, cơ quan xây dựng đề án có trách nhiệm hoàn thiện đề án và gửi HĐND cấp tỉnh, huyện, xã ở các đơn vị hành chính có liên quan để xem xét, cho ý kiến.
Đề án phải được thẩm định trước khi trình Chính phủ và được thẩm tra trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Việc lập đề án, trình tự, thủ tục xem xét, thông qua đề án thực hiện theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bình luận (0)