Mười ba năm trước (2005), Đoàn Tuấn đã xuất bản cuốn Những người không gặp nữa, cũng một thể loại hồi ức, viết về những đồng đội của anh phải nằm lại nơi đất nước Chùa Tháp. Cuốn sách ấy đã lay động nhiều người bởi nó chạm đến những sợi tơ lòng nhỏ nhất của cả một thế hệ thanh niên chưa kịp vui mừng sau 30 năm chinh chiến giờ lại phải đối mặt với một cuộc chiến khác ở “bên ngoài Tổ quốc”. Dù vậy, Đoàn Tuấn cảm thấy viết như thế vẫn chưa nói hết những gì mà tác giả và thế hệ của mình đã phải trải qua ở chiến trường Campuchia suốt 5 năm 1978-1983. Có lẽ, Mùa chinh chiến ấy ra đời là để “nói hết” những điều cần nói sau 40 năm chúng ta buộc phải tham gia cuộc chiến tranh bất đắc dĩ ấy.
Có lần Đoàn Tuấn tâm sự rằng anh định viết một cuốn tiểu thuyết về những gì đã nếm trải sau những năm tháng khốc liệt ở chiến trường K và rồi anh đã bỏ ý định ấy. Thế nhưng, cuộc chiến với những gian khó ngoài sức tưởng tượng đối với một chàng trai Hà Nội như Tuấn đã thôi thúc anh phải cầm bút. Tác giả phải mất một thời gian khá lâu để chọn hình thức “hồi ức” như cuốn Mùa chinh chiến ấy để chuyển tải những thông điệp mà anh muốn gửi gắm đến, trước hết là những đồng đội cùng thời với anh, sau nữa là những ai quan tâm đến cuộc chiến ở chiến trường K. Đây như một tự truyện nhưng cái “tôi” luôn hòa quyện với cái “chúng ta”, nhiều khi tác giả “ẩn” mình phía sau những sự kiện nhưng người đọc vẫn nhận ra những gì mà tác giả của những trang văn còn lấm lem bùn đất và lửa khói chiến hào ấy đã nếm trải và chịu đựng.
Chẳng cần phải màu mè, triết lý hoặc nhà văn phải bày binh bố trận cho các tuyến nhân vật của mình “cựa quậy” trên gần 500 trang sách, tác giả chỉ ghi lại những gì mà mình chứng kiến bằng một giọng kể chân phương và không né tránh. Ai cũng biết “chiến tranh không phải trò đùa” nhưng sự khốc liệt như tác giả kể lại trong sách thì thật khó hình dung nổi. Có những đồng đội phải “hai lần chết”, một lần chết do mìn quân Pol Pot, một lần trên đường khiêng xác về hậu cứ trung đoàn bị địch phục kích lần nữa. Mới mùa khô chết khát đã sang mùa mưa chết do lũ cuốn, vừa chứng kiến bạn mình chết do giẫm mìn lại phải đau lòng khi chôn một đồng đội khác do sét đánh hoặc rắn cắn. Alongven, địa danh ấy bây giờ nằm trong một tour du lịch nổi tiếng nhưng ít ai biết, từng là “tử địa” của những chàng trai thuộc Sư đoàn 307 Việt Nam cách đây 40 năm.
Ưu thế của hình thức “hồi ức” là người viết không quá bận tâm đến “hình tượng nhân vật”, không phải nhọc công để sắp xếp sao cho logic về mặt thời gian, không gian như trong tiểu thuyết truyền thống mà tác giả chỉ cần “đừng quên” những sự kiện cần phải nhớ. Đoàn Tuấn đã làm quá tốt điều này. Anh gần như “không quên” bất cứ chuyện gì. Thật khó mà cầm lòng khi đọc những dòng anh viết về những người bạn cùng quê Hà Nội với anh, đã bọc trong túi áo cả giấy gọi nhập học đại học từ 5 năm trước và giấy ra quân hôm nay, nhưng trên đường về nước đã gặp phải mìn, hai loại giấy tờ cần thiết đối với một người lính đã xong nghĩa vụ ấy giờ văng tung tóe, tờ giấy nào cũng đẫm máu tươi. Rồi một anh tiểu đoàn trưởng, đi hết cuộc chiến tranh chống Mỹ chả sao, giờ ngã xuống trên chiến trường K, khi làm công tác kiểm đếm di vật tử sĩ, người ta chẳng thấy gì trong chiếc ba lô cũ kỹ của anh ấy ngoài những lá thư của gia đình gửi sang.
“Chỉ có thiếu và thừa/Không bao giờ lính đủ/Chiếc ba lô càng cũ/Càng chẳng có gì riêng”. Hơn 34 năm trước, Đoàn Tuấn được tạp chí Văn nghệ Quân đội trao giải nhất trong một cuộc thi thơ với chùm thơ viết từ Alongven, trong đó có Bài thơ không viết nháp với những câu được trích dẫn trên đây. Bây giờ, sau 40 năm anh từng cất vào ba lô tờ giấy gọi nhập học vào Trường đại học Tổng hợp Hà Nội để lên đường sang chiến trường K, Tuấn “không viết nháp” nữa mà gửi đến bạn đọc ngót 500 trang sách, ngồn ngộn sự kiện, ngồn ngộn tâm trạng cùng những dấu hỏi và cả những tình cảm tha thiết gửi đến đồng đội, bạn bè đã may mắn “được là người trở về”, dù có người không nguyên vẹn. Cuốn sách đã tái bản lần thứ 2 trong thời buổi “ế sách” đủ biết độ hot của nó.
Bình luận (0)