Du ký Việt Nam: Tài nguyên và sức sống xứ Nam kỳ

07/12/2024 05:52 GMT+7

Tôi đào sâu tỷ giá đồng bạc Đông Dương và có thể đôi chỗ chưa rõ, nhưng phải nắm được chúng thì mới hiểu được tính chất của cuộc khủng hoảng và lý do tại sao một thuộc địa đẹp và thịnh vượng hơn cả, với khoản dự trữ lên tới 5 triệu đô la, lại rơi vào túng quẫn chỉ trong chốc lát.

Vấn đề hiện nay không phải là tiền dự trữ, mà là khoản thâm hụt ước tính đạt ba triệu phơ răng nếu làm tròn. Tôi cũng xin nói ngay rằng khoản thâm hụt này là chuyện thật như ban ngày.

Du ký Việt Nam: Tài nguyên và sức sống xứ Nam kỳ- Ảnh 1.

Vườn rau của người Hoa ở ngoại thành Sài Gòn

Ảnh: Lấy từ tác phẩm in năm 1899

Quả thật, sự mất giá của đồng tiền không phải là nguyên nhân duy nhất gây ra thất thoát này. Quá trình cân đối ngân sách đã đặc biệt làm rõ tác động của những phí tổn nặng nề phát sinh từ việc thành lập Liên bang Đông Dương, liên bang mà Nam kỳ đã đề xuất từ lâu.

[…]

Sẽ dễ nhầm lẫn nếu, khi nhận định về xứ này, ta phóng đại mức độ trầm trọng của những khó khăn nhất thời tới mức bỏ qua những nguồn tài nguyên và sức sống không thể phủ nhận của nó. Một xứ xuất khẩu trung bình khoảng 10 triệu picul gạo, hơn 100.000 picul tiêu; còn nhiều không gian rộng lớn có thể canh tác được ở vùng cao phía bắc và phía đông, nguồn tài nguyên lâm sản đáng kể, không thể nào lại lâm vào túng quẫn.

Khi nhìn nhận những gì đã được thực hiện tại đây trong khoảng thời gian tương đối ngắn - chưa đầy 30 năm - ta không thể không ngưỡng mộ một xứ được thiên nhiên ưu đãi đến vậy và những người đã khai khẩn nó. Cách đây 10 năm, tổng ngân sách (ngân sách địa phương và các hạt tham biện) không quá 10 triệu phơ răng: hiện nay, con số này đã đạt gần 40 triệu, phân bổ thuế theo tỷ lệ dân số đạt trung bình 20 phơ răng/người. Đó là con số lớn. Người An Nam là những người đóng thuế ngoan ngoãn nhất. Thuế thường được thu xong ngay từ quý đầu. Còn đâu hơn nữa?

Du ký Việt Nam: Tài nguyên và sức sống xứ Nam kỳ- Ảnh 2.

Trong một ngôi chợ ở Sài Gòn năm 1896

Ảnh: Firmin André Salles

Việc người nông dân dễ dàng hoàn thành nghĩa vụ thuế cho thấy sự màu mỡ của đất đai. Giá trị thặng dư lớn thu được từ đất cũng là bằng chứng thuyết phục. Tôi đã thấy những ruộng lúa, có giá hơn 24 đồng bạc Đông Dương một héc ta cách đây mười năm, gần đây được bán với giá 150 đồng bạc. Có lẽ không một nơi nào làm ít mà hưởng nhiều như vậy. Trong khi nông dân Pháp vất vả tám tháng mỗi năm thì người An Nam chỉ làm nông trong bốn tháng.

Dù sao thì nhu cầu của họ rất hạn chế, chi phí ăn mặc không đáng kể, các thú vui cũng đơn giản và ít tốn kém. Vài ngụm chum-chum (rượu gạo), vài miếng trầu, là đủ để họ thỏa mãn. Đúng là họ thích bài bạc, nhưng chỉ thỉnh thoảng vào những dịp đặc biệt - năm mới chẳng hạn - họ mới thoải mái đặt cược tài sản của mình vào trò ba quan [xóc đĩa]. Nếu không may mắn, họ nhẹ nhõm rời đi. Đồng bào của họ luôn đầy tình thương, có thể cho vay mượn dễ dàng.

Với những người này, làng xóm sẽ lấy tiền túi hoặc quyên góp để giúp đỡ người đánh bạc và chu cấp cho anh ta miếng cơm manh áo, miễn là anh ta cũng trả lại như thế. Trong hoàn cảnh đó, cuộc chiến sinh tồn không còn cay đắng nữa, nghĩa vụ thuế khóa trở nên bớt khắc nghiệt đối với người nông dân châu Á hơn là người lao động châu Âu. Hơn nữa, một phần thuế được tái đầu tư cho dân chúng, dưới dạng các công trình, đường sá, kênh tưới tiêu, xây dựng chợ có mái che.

Với đầu óc lanh lợi, ngay khi nhận thẻ thuế, họ hiểu rằng nộp thuế là làm lợi cho mình, nói cách khác là, tiền của họ quay lại phục vụ họ. Tuy nhiên, tôi cho rằng thật thiếu thận trọng nếu tăng thuế quá cao và quá tin tưởng vào thiện chí vô hạn của người nộp thuế. Nếu cứ tiếp tục thế này, ta có nguy cơ khiến họ nản lòng.

Đến ngày người An Nam nhận ra rằng quyền lợi không còn tương xứng với nghĩa vụ, rất có thể họ sẽ chỉ trồng trọt cho đủ ăn, bỏ hoang phần đất còn lại giống như người Cao Miên. Nguy hiểm ở chỗ đó. Đừng giết hại con gà đẻ trứng vàng.

Tôi không biết đưa ra kết luận nào tốt hơn ngoài việc thú nhận rằng cảm tưởng khi mới đặt chân đến đây đã trở nên sâu sắc hơn sau năm tuần lưu trú. Tôi thấy hình như dư luận quan tâm đến đế chế Đông Dương đã phần nào quên mất Nam kỳ. Khi anh nói đến Đông Dương, người đối thoại của anh ở Pháp tưởng đó là Bắc kỳ…

Bắc kỳ là tương lai, một mảnh đất tiếp giáp đế chế Trung Hoa cũ, con đường ngắn nhất thâm nhập vào các tỉnh Tây Nam: vậy là quá đủ để thu hút những tâm hồn phóng khoáng, những người giàu sáng kiến và hành động vốn cảm thấy bó buộc ở quê hương và mơ mộng về những chân trời mới.

Hơn nữa, ta không thể so sánh hai xứ với nhau mà không ca ngợi xứ này và miệt thị xứ kia. Đặc tính của dân chúng và thể chế, đất đai và khí hậu, hoàn toàn khác nhau. Chắc chắn tôi sẽ rất vui được tiếp tục tiến ra [Trung kỳ và] Bắc [kỳ] trong tương lai gần. (còn tiếp)


(Nguyễn Quang Diệu trích từ cuốn sách Vòng quanh châu Á: Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ, Hoàng Thị Hằng và Bùi Thị Hệ dịch, AlphaBooks - Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I và NXB Dân Trí ấn hành tháng 7.2024)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.