Xây dựng khoảng năm 1848, lăng có tên chính xác là Thượng Công miếu, diện tích khoảng 1,85 ha (thuộc P.1, Q.Bình Thạnh, TP.HCM). Dân gian gọi lăng Ông Bà Chiểu có nghĩa là lăng Ông (tránh gọi thẳng tên Lê Văn Duyệt vì phạm húy) ở khu Bà Chiểu.

Tranh của họa sĩ Đoàn Quốc
Công trình gồm nhà bia (nơi đặt bia đá ghi công Tả quân), khu mộ Tả quân và vợ (còn gọi là mộ quy vì hình dáng như con rùa đang nằm, có bình phong và tường bao quanh) và miếu thờ (gồm tiền điện, trung điện và chánh điện).
Chánh điện có bức tượng Tả quân bằng đồng cao 2,65 m, nặng 3 tấn, do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện.
Từng được chọn là biểu tượng của vùng Sài Gòn - Gia Định xưa, cổng Tam quan được xây năm 1949, có hàng chữ nổi bằng tiếng Hán Thượng Công Miếu.

Ký họa của kiến trúc sư (KTS) Trần Võ Lam Điền
Lê Văn Duyệt là tướng tài (thời vua Gia Long và Minh Mạng), lập nhiều công lớn. Ông là đại diện cho tinh thần khai phóng của người Nam bộ vì có tư tưởng phóng khoáng, chấp nhận sự đa dạng của lưu dân từ các miền Trung, Bắc, Hoa, Chăm, kể cả giáo sĩ, thương nhân…

Mộ Tả quân và vợ phía trước miếu thờ
Ký họa của KTS Xuân Hồng
Hằng năm, tại lăng đều tổ chức lễ giỗ Tả quân vào ngày 29 hoặc 30 tháng 7, mùng 1 và 2 tháng 8 âm lịch. Tả quân được người dân xem như vị thần nên việc cúng tế ông tại lăng cũng mang nghi thức thờ và tế thần (như lễ Bà Chúa Xứ).

Cổng Tam quan từng được chọn là biểu tượng của vùng Sài Gòn – Gia Định xưa
Ký họa của KTS Hoàng Hữu Đạt

Kiểu mái chồng mái (trùng thiềm) phổ biến của miếu thờ nhà Nguyễn
Ký họa của họa sĩ Quân Nguyễn

Miếu thờ xây theo "điệp ốc" (nhà liền nhà, nối nhau theo một trục)
Ký họa của KTS Nguyễn Văn Thiện Quân

Cổng tam quan nằm trên đường Vũ Tùng
Ký họa của KTS Bùi Hoàng Bảo

Ký họa của sinh viên kiến trúc Trường ĐH Nguyễn Tất Thành Ngô Quốc Thuận

Ký họa của KTS Đinh Thanh Ngân

Ký họa của sinh viên kiến trúc Võ Tín Đạt

Ký họa của Trần Quang Thoại - sinh viên Trường ĐH Mỹ Thuật

Tranh của KTS Phùng Thế Huy

Góc nhìn từ đường Phan Đăng Lưu
Ký họa của KTS Đặng Phước Tuệ
Bình luận (0)