Các hướng dẫn mới nhất của Hiệp hội Tim mạch Mỹ và Hiệp hội Đột quỵ Mỹ, vừa được công bố trên tạp chí khoa học Stroke, tập trung vào việc xác định và quản lý các yếu tố rủi ro và nêu bật các hành vi lối sống lành mạnh có thể làm giảm nguy cơ đột quỵ.
Trưởng nhóm biên soạn hướng dẫn mới, tiến sĩ Cheryl D. Bushnell, giáo sư bộ phận nghiên cứu tại khoa thần kinh học thuộc Trường Y Đại học Wake Forest ở Winston-Salem (Mỹ), cho biết: Hướng dẫn rất quan trọng vì đã có những khám phá mới kể từ lần cập nhật cuối cùng cách đây 10 năm. Thực hiện các khuyến nghị trong hướng dẫn này sẽ giúp giảm đáng kể nguy cơ đột quỵ. Đồng thời, cũng giúp giảm nguy cơ mắc chứng mất trí nhớ - liên quan đến các vấn đề về mạch máu trong não.
Tiến sĩ Bushnell cho biết: Cách hiệu quả nhất để giảm nguy cơ đột quỵ và tử vong do đột quỵ là ngăn ngừa đột quỵ đầu tiên, được gọi là phòng ngừa ban đầu, theo chuyên trang sức khỏe Healthline.
Một số nhóm người có nguy cơ đột quỵ cao, có thể là do di truyền, lối sống, yếu tố sinh học hoặc các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe. Và trong một số trường hợp, những người này không được sàng lọc thích hợp để xác định nguy cơ của họ.
Các yếu tố nguy cơ đột quỵ cho mọi người
Lần đầu tiên, các hướng dẫn về đột quỵ chỉ ra các khuyến nghị cụ thể và phác thảo các yếu tố nguy cơ để nhận biết nhằm phòng ngừa và theo dõi.
Các hành vi lối sống phổ biến nhất, dễ kiểm soát nhất, được Hiệp hội Đột quỵ Mỹ gọi là chỉ số sức khỏe tim mạch thiết yếu - mà nếu không được kiểm soát, sẽ trở thành các yếu tố nguy cơ đột quỵ, bao gồm:
Ăn chế độ ăn Địa Trung Hải. Chủ yếu bao gồm trái cây, rau, đậu, hạt, ngũ cốc nguyên hạt, dầu ô liu, một lượng nhỏ sữa, trứng, cá và gia cầm, ngay cả khi không có yếu tố rủi ro.
Tập thể dục nhịp điệu (đi bộ, chạy bộ, đạp xe, bơi lội) vừa phải ít nhất 150 phút mỗi tuần hoặc tập mạnh mẽ 75 phút mỗi tuần, hoặc kết hợp cả hai, trải đều trong tuần.
Ngủ đủ giấc.
Không hút thuốc.
Theo dõi mức cholesterol, huyết áp, đường huyết và giữ chúng trong phạm vi lành mạnh.
Ngoài ra, hướng dẫn còn nhấn mạnh đến nhu cầu đánh giá rủi ro để ước tính nguy cơ đột quỵ và bệnh tim trong 10 năm và 30 năm bắt đầu từ 30 tuổi. Biết kết quả có thể giúp đưa ra quyết định điều trị phòng ngừa.
Riêng đối với phụ nữ, có thêm một số yếu tố nguy cơ, bao gồm:
- Từng bị tiền sản giật (huyết áp cao) trong thời kỳ mang thai.
- Các biến chứng thai kỳ khác như sinh non.
- Lạc nội mạc tử cung.
- Uống thuốc tránh thai.
- Suy buồng trứng sớm (trước 40 tuổi).
- Mãn kinh sớm (trước 45 tuổi).
- Bị bốc hỏa nghiêm trọng trong thời kỳ mãn kinh.
- Dùng liệu pháp thay thế hoóc môn có chứa estrogen để trì hoãn mãn kinh đến sau tuổi 60 (muộn hơn 10 năm so với tự nhiên).
- Dùng estrogen đối với trường hợp chuyển giới.
Đột quỵ xảy ra khi lưu lượng máu đến não bị gián đoạn sau khi mạch máu bị cục máu đông chặn hoặc vỡ. Đột quỵ gây tổn thương não có thể dẫn đến tình trạng khuyết tật đáng kể, bao gồm khó suy nghĩ, khó nói và đi lại.
Hiệp hội Đột quỵ Mỹ sử dụng từ viết tắt FAST để nói về đột quỵ: Mặt xệ (Face), tay yếu (Arms), nói (Speed) khó và thời gian gọi cấp cứu là rất quan trọng (Time) và phải thật nhanh (FAST), theo Healthline.
Bình luận (0)