Khủng hoảng cát ở ĐBSCL: Cuộc khủng hoảng trên giấy?

04/07/2023 06:28 GMT+7

Thiếu cát và tình trạng này ngày càng trầm trọng hơn là bức tranh được “vẽ” lên suốt bao lâu nay. Nhưng thiếu vì nguồn cát cạn kiệt hay vì cát bị khai thác lậu là vấn đề cần được tách bạch để có giải pháp quản lý hiệu quả hơn.

Nếu không, chúng ta vô tình tiếp tay cho nạn cát tặc đang hoành hành ở khắp các con sông ĐBSCL.

Khủng hoảng cát ở ĐBSCL: Cuộc khủng hoảng trên giấy? - Ảnh 1.

Bình quân mỗi ngày lại có khoảng 17.000 m³ cát từ Campuchia nhập khẩu qua cửa khẩu Vĩnh Xương về VN

Những mỏ cát "thạch sanh"

Đứng sau căn nhà nằm chơi vơi ven bờ sông Tiền, cha con ông L.V.P (70 tuổi, ngụ xã Phú Thuận B, TP.Hồng Ngự, Đồng Tháp) tỏ rõ lo lắng khi sạt lở ngày một lấn sâu. Cách đó không xa, những xáng cạp vẫn miệt mài khai thác cát ngoài sông. Hộ dân ở kế nhà ông P. đã rời nhà đi vì sạt lở. Dấu tích còn lại là cái nền nhà vỡ toác cùng vài thứ đồ đạc trong đống đổ nát. Cách bờ sông sạt lở chừng vài mét, 2 ngôi mộ người thân của họ chưa kịp di dời.

Anh L.V.U (42 tuổi, con ông P.), từng làm quản lý cho một mỏ khai thác cát, từng có hiềm khích với người dân vì bị cho là gây sạt lở thì giờ đây chính gia đình anh trở thành nạn nhân bị sạt lở "bủa vây".

Nhìn về phía chiếc xáng cạp gầm rú, kéo gầu cát lên khỏi mặt nước, anh U. nói: "Lợi nhuận của các mỏ cát là khủng khiếp". U. giải thích: "Không chỉ khai thác ăn gian trữ lượng, các mỏ còn gian lận cả phạm vi khai thác. Ví dụ cấp phép cho anh điểm A, nhưng anh sẽ qua khai thác các điểm B, C, D, E xung quanh. Điểm A sẽ chừa lại đó, chừng nào có đoàn xuống kiểm tra, khảo sát đánh giá trữ lượng sẽ vẫn thấy chỗ này còn cát và cho gia hạn khai thác tiếp".

Khủng hoảng cát ở ĐBSCL: Cuộc khủng hoảng trên giấy? - Ảnh 2.

Hộ dân ở cạnh gia đình ông L.V.Ph đã dời nhà đi vì sạt lở, dấu tích chỉ còn đống đổ nát

ĐÌNH TUYỂN

Bằng kinh nghiệm của mình, anh U. bảo rằng chỉ cần bỏ thời gian ngồi đếm sà lan cũng có thể biết được chiêu trò gian lận trữ lượng của các mỏ khai thác cát. "Một cần cẩu có thể cạp 4.000 - 5.000 m3/ngày nhưng có khi họ chỉ xuất hóa đơn 200 m3, còn lại là bán buông đuôi, người mua cát sẽ phải thông qua cò để tìm hóa đơn hợp thức hóa. Cứ vậy một cần cạp cát có thể thu về 400 - 450 triệu đồng/ngày, mỗi tháng lên tới hàng chục tỉ đồng", U. nói người dân biết những chiêu trò gian lận của các mỏ cát nhưng ít ai dám lên tiếng vì sợ trả thù. "Có thể anh không sợ nhưng họ mướn giang hồ hăm dọa đến con cái anh thì dù anh có cứng rắn, đầu gấu cỡ nào cũng phải ngán", anh U. chia sẻ.

Cũng ở Đồng Tháp, một cán bộ xây dựng công trình nông nghiệp trần tình với chúng tôi rằng ngay cả các công trình kè sông của nhà nước, có hợp đồng cung ứng cát nhưng để lấy cát nhanh thì mỗi sà lan cũng phải chi 5 - 7 triệu đồng "lót tay" cho cần cạp, nếu không sẽ phải xếp hàng chờ rất mất thời gian.

Tại Cần Thơ, ông P.T.D, chủ một doanh nghiệp kinh doanh cát, từng có cả đội sà lan vận chuyển, tiết lộ rằng chính ông cũng bị cơ quan thuế "sờ gáy" vì dính hàng chục hóa đơn khống mua cát lậu. Đưa chúng tôi xem các hóa đơn khống, ông D. nói: "Giờ muốn mua cát đúng hóa đơn chứng từ, đúng khối lượng không bao giờ được, chỉ có thể làm chui thôi. May là tôi mua qua trung gian chứ tự đi mua cát, mua hóa đơn thì nặng tội rồi".

Chủ doanh nghiệp này cũng tỏ vẻ ngao ngán khi đề cập đến chuyện thiếu cát ở ĐBSCL, ông lắc đầu bảo: "Chẳng qua là khủng hoảng thấy trên giấy thôi. Bởi thực tế, riêng nhu cầu cát cho xây dựng dân dụng ở ĐBSCL, TP.HCM và Đông Nam bộ mỗi ngày là không dưới 300.000 m3. Mỗi tháng là khoảng 9 triệu m3 cát, một năm là hơn 100 triệu m3. Cát ở đâu ra đáp ứng?".

"Thử nhìn vào con số trữ lượng khai thác cấp phép so với nhu cầu thì có thể hiểu một lượng cát rất lớn đã bị khai thác gian lận. Cũng từ đây mà "đẻ" ra cò cát, cò hóa đơn rất phổ biến nhiều nơi", ông D. nói xong còn đưa cho PV Thanh Niên vài số điện thoại của "cò cát", sà lan vận chuyển để kiểm chứng.

Khủng hoảng thiếu cát ở ĐBSCL

Nhiều nước không còn hút cát ở sông

Nhận định khi trả lời Thanh Niên về hiện trạng khai thác cát ở ĐBSCL, ông Marc Goichot, quản lý Chương trình nước ngọt của Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF) châu Á - Thái Bình Dương, cho rằng nếu như cứ tiêu thụ cát nhiều hơn sản xuất/bồi đắp, nó sẽ không bền vững. Khi không bền vững, cái giá phải trả là rất lớn và nhiều tác động thậm chí còn chưa được hiểu rõ.

Theo chuyên gia này, khai thác cát ở ĐBSCL thực ra là đánh đổi giữa các giá trị. Ở đó cát chưa thực sự được coi trọng đúng mức, đúng giá trị của nó. "Nếu chúng ta định giá cát đang dần khan hiếm, chúng ta cần phải đánh giá cát với cả chức năng là đất ở, hỗ trợ hệ sinh thái, hỗ trợ cộng đồng, bảo vệ nhà cửa, tài sản và đất đai của người dân. Phải xác định đúng giá trị của cát, rồi mới quyết định có đánh đổi hay không", ông Marc Goichot nói.

Ông Marc Goichot cho biết trên thế giới, ít nhất là các nước phát triển không còn hút cát từ sông nữa. Giải pháp họ đưa ra đầu tiên là vật liệu tái chế. Một số quốc gia ở châu Âu có tỷ lệ tái chế lên đến 11%, nghĩa là, 11% cát được sử dụng là từ tái chế; Bỉ là 25% và Hà Lan là gần 30%...

Ở châu Á, Trung Quốc được xem là quốc gia đi đầu trong lĩnh vực tái chế khi công nghệ được đầu tư rất tiên tiến. "Họ có máy móc, rô bốt tự động, khi họ cần san ủi một tòa nhà, chỉ cần nhập tọa độ. Máy đi vào, phân loại và tự động phân chia kim loại, cát tái chế và các vật liệu mịn sử dụng để san lấp mặt bằng. Nguyên vật liệu để thi công sẽ được đưa lên xe tải chở thẳng đến nơi khác để sử dụng. Đây là một cách tổ chức rất tốt về mặt kỹ thuật", ông Marc Goichot nói. Ngoài ra, một giải pháp khác ở nhiều nước ứng dụng là cát nhân tạo từ đá nghiền. Các tác động của khai thác mỏ đá là cục bộ hơn so với tác động trên diện rộng của hoạt động khai thác cát.

"Nếu chúng ta chần chừ, cứ tiếp tục khai thác cát, phát triển theo cách thức thông thường, thì chi phí xã hội sẽ ngày càng tăng cao. Ai đó sẽ phải trả các chi phí này. Nếu không phải là chúng ta, thì đó sẽ là các thế hệ tiếp theo", vị này nói và khuyến cáo câu chuyện khai thác cát cần được nhìn rộng hơn, bởi khi gia tăng khai thác cát ở Thái Lan, Lào, Campuchia chắc chắn sẽ dẫn tới tổn thất lớn cho ĐBSCL. Vì vậy, quản lý khai thác cát cũng cần được nhìn trên phạm vi cả lưu vực Mê Kông, bằng những trao đổi, đề xuất, cùng nhau tìm kiếm các lựa chọn thay thế cát, cũng như thúc đẩy việc sử dụng cát nhân tạo ở các quốc gia.

Nhiều công trình chở cát nước ngọt từ An Giang đem xuống vùng ven biển để san lấp, dùng nước nhiễm mặn để bơm cát lên công trình. Vậy là cát ngọt cũng trở thành cát nhiễm mặn, rất vô lý. Chúng ta sử dụng tài nguyên không thông minh thì sẽ phải trả giá cho sự mất cân đối, trả giá về môi trường, trả giá cho rất nhiều chi phí khác sẽ đội lên. Trong khi tại Singapore, các công trình ven biển thường phân thành 2 cấp để đắp nền. Cao độ nền dưới mực nước biển sẽ cho phép sử dụng cát nhiễm mặn. Sau đó một lớp vải địa kỹ thuật sẽ được trải rồi mới tiếp tục trải cát ngọt. Vừa tiết kiệm cát vừa có thể đảm bảo việc bố trí các công trình ngầm không bị ăn mòn, tiếp đó là để trồng cây xanh. Còn chúng ta, một số loại vật liệu thay thế cho cát chưa có trong tiềm thức của người dùng. Cho nên hầu như khâu tư vấn, thiết kế chưa xem vật liệu thay thế cát là lựa chọn trong hồ sơ thiết kế công trình. Tại An Giang, mỗi năm việc nạo vét kênh thủy lợi mang lại khoảng 20 triệu m3 bùn đất, đất sét. Tỉnh đã cho sử dụng ở các công trình cụm tuyến dân cư ở địa phương vốn không đòi hỏi cao về kỹ thuật nhằm giảm bớt sử dụng cát.

Ông Trần Anh Thư (Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang)

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.