Rau quả xuất siêu tỉ đô, nhập về cũng ào ạt

10/08/2017 07:52 GMT+7

Là mặt hàng nông sản chính có giá trị xuất khẩu lớn nhưng trung bình mỗi tháng người Việt vẫn phải chi hơn 121 triệu USD để mua rau quả ngoại. Thậm chí, ngay tại sân nhà, nhiều loại trái cây, rau củ trong nước vẫn chịu cảnh ế đồng, dội chợ.

Bán nhiều, mua không ít
2016 được coi là năm bứt phá của ngành rau quả VN khi giá trị xuất khẩu đạt 2,4 tỉ USD, tăng 31,2% so với năm 2015. Xuất khẩu rau quả lần đầu vượt qua lúa gạo (2,2 tỉ USD) để trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực và thâm nhập vào gần 60 thị trường nước ngoài, bao gồm cả các thị trường khó tính như Mỹ, Úc, Hà Lan, Hàn Quốc, Đài Loan... Tiếp đà tăng tốc, báo cáo của Bộ NN-PTNT cho biết giá trị xuất khẩu hàng rau quả 7 tháng qua ước đạt 2,03 tỉ USD, tăng gần 49% so với cùng kỳ năm 2016.
Có thể nói, đây là thành tích ngoạn mục của ngành rau quả nội địa. Chỉ có điều, bên cạnh việc xuất khẩu tăng cao, tốc độ nhập khẩu rau quả cũng tăng mạnh, trong đó có rất nhiều sản phẩm là thế mạnh của ngành nông nghiệp VN. Cụ thể, chỉ riêng tháng 7, chúng ta bỏ 216 triệu USD nhập khẩu rau quả. Tính chung 7 tháng đầu năm 2017, giá trị nhập khẩu rau quả đạt 852 triệu USD, tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ năm 2016. Thị trường nhập khẩu rau quả lớn nhất là Thái Lan (chiếm 57% thị phần), tiếp đến là Trung Quốc (16,8%). Như vậy trung bình mỗi tháng người Việt chi gần 121 triệu USD để mua rau quả ngoại. Tính chung 7 tháng, rau quả xuất siêu gần 1,2 tỉ USD nhưng số tiền người Việt bỏ ra để mua rau quả ngoại đang tăng chóng mặt.
Khảo sát tại các siêu thị có thể thấy, trái cây nhập ngoại từ Thái, Úc, Mỹ, Hàn Quốc được người tiêu dùng Việt rất ưa chuộng. Thậm chí, nhiều loại trái cây VN có thế mạnh như thanh long, mãng cầu... giờ đây cũng bị cạnh tranh mạnh từ hàng nhập ngoại dù giá cao ngất ngưởng. Đơn cử mãng cầu Đài Loan 500.000 đồng/kg trong khi mãng cầu VN có giá rẻ hơn 10 lần, chỉ khoảng 40.000 - 60.000 đồng/kg, thanh long ruột vàng Malaysia 700.000 đồng/kg...
Rau quả và lòng tin
 
 
Quá ngọt chưa chắc được ưa chuộng
Thực tế, nhãn lồng Hưng Yên, xoài cát Hòa Lộc được đánh giá có vị ngọt, ngon hơn rất nhiều so với xoài Đài Loan, Thái Lan nhưng vẫn không được yêu thích bằng hàng nhập. PGS-TS Nguyễn Văn Ngãi lý giải đối với riêng mặt hàng trái cây, chất lượng không phụ thuộc vào độ ngọt bởi càng ngày, nhu cầu ăn các mặt hàng trái cây vị ngọt cao của người tiêu dùng càng thấp. “Nhãn, xoài của chúng ta rất ngọt nhưng không có tiềm năng xuất khẩu vì xu hướng chung của thế giới, càng các nước phát triển càng không thích ăn trái cây ngọt. Họ quan niệm nhiều đường không tốt cho sức khỏe”, ông Ngãi lưu ý.
Theo PGS-TS Nguyễn Văn Ngãi, Trưởng khoa Kinh tế Trường ĐH Nông Lâm TP.HCM, với một số loại trái cây cao cấp VN không có như cherry, táo, nho... thì chuyện nhập về là hết sức bình thường. Nhưng rất nhiều trái cây rau củ mình có mà vẫn phải nhập là do nhiều người tin tưởng vào chất lượng, độ an toàn của sản phẩm ngoại nhập. "Đối với các mặt hàng thực phẩm, an toàn là yếu tố tiên quyết, đặc biệt khi đời sống người dân ngày càng được nâng cao như hiện nay. Trong khi hàng nội thường việc kiểm soát chất lượng chưa được chú trọng nhiều, một số nông sản mất kiểm soát, không an toàn dẫn đến mất lòng tin của người tiêu dùng", TS Ngãi nhận định và phân tích thêm: “Không thể phủ nhận mấy năm trở lại đây có rất nhiều doanh nghiệp Việt đầu tư vào nông nghiệp sạch để cho ra những sản phẩm chất lượng tốt, bảo đảm an toàn. Vậy vì sao vẫn bị người tiêu dùng nội địa "ngó lơ" trong khi họ sẵn sàng bỏ ra số tiền tương đương, thậm chí cao hơn để mua rau quả nhập? Vấn đề vẫn nằm ở lòng tin. Các doanh nghiệp Việt chưa thực sự xây dựng được lòng tin từ phía người tiêu dùng. Thị trường chủ lực tiêu thụ rau, củ, quả nội địa hiện nay vẫn là các chợ truyền thống, hàng đưa vào siêu thị chỉ chiếm thị phần nhỏ. Khi mua hàng chợ, người tiêu dùng trong nước thường có tâm lý xem cái nào cũng như nhau, mua rẻ hơn để… khỏi bị lừa mua hàng dỏm gắn “mác” xịn giá cao”.
Để giải quyết thực trạng này, TS Ngãi cho rằng vấn đề chính là các doanh nghiệp phải xây dựng được thương hiệu chắc chắn, có kênh phân phối đến tay người tiêu dùng một cách rẻ nhất, nhanh nhất, tạo sự tin tưởng cao nhất. “Việc xây dựng lòng tin là cốt lõi, không thể làm một sớm một chiều nhưng là con đường duy nhất để người Việt dùng nông sản Việt, không phải mua hàng ngoại với cái giá đắt đỏ như hiện nay”, ông nhận định.
Từ góc nhìn chuyên môn, chuyên gia nông nghiệp Võ Tòng Xuân phân tích người Việt “sợ” ăn rau củ, trái cây Việt là do tâm lý nghi ngại người nông dân VN phun thuốc quá nhiều, thậm chí có tình trạng còn sử dụng các loại thuốc cực độc để trừ sâu, diệt bệnh nhanh. Nhiều nông dân thích dùng phân NPK, phân hóa học để bón cho cây mà không biết chính các loại phân này sẽ làm đất càng ngày càng bị chai và "quyến rũ" các loại sâu bệnh. GS Võ Tòng Xuân cho rằng, cần phải khuyến khích bà con nông dân thay thế phân hóa học bằng phân hữu cơ và phân vi sinh để giúp rễ cây phát triển mạnh hơn, tiết ra các chất ngăn sự phát triển của vi khuẩn độc hại. Đây cũng là xu hướng của các nước nông nghiệp trên thế giới như Thái Lan mà VN cần học tập. Việc này không chỉ ngừa sâu bệnh, chất kích thích tăng trưởng sinh học này khi bón vào đất hay phun lên lá sẽ giúp tăng năng suất, tăng chất lượng của sản phẩm. “Vấn đề lừa gạt người tiêu dùng cũng đáng quan tâm. Nhà nước phải có trách nhiệm nâng cao quản lý, cùng doanh nghiệp nâng cao ý thức người bán, nâng cao uy tín các kênh phân phối để tạo niềm tin cho người tiêu dùng”, ông Xuân khuyến nghị.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.