Miếu Vạn Ban nằm sát chân núi Tượng thuộc ấp An Định, thị trấn Ba Chúc, H.Tịnh Biên (An Giang) là một trong những cơ sở tín ngưỡng của Tứ ân hiếu nghĩa - một dạng tôn giáo cứu thế, nhánh phát triển của Bửu sơn Kỳ hương.
>> Kỳ 23: m vang Tiêu tự thần chung
Thị trấn Ba Chúc ngày nay được hình thành từ các cuộc khởi nghĩa chống Pháp hồi cuối thế kỷ 19 ở một số tỉnh Nam kỳ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa do Đức Bổn sư Ngô Lợi lãnh đạo.
Chiêu binh khởi nghĩa
Ngô Lợi có thể tên là Ngô Văn Lợi, chữ Hán viết trang trọng là Ngô Tự Lợi. Theo tài liệu của nhà văn Sơn Nam, Ngô Lợi quê ở làng Trà Tân (nay là xã Long Trung, H.Cai Lậy, Tiền Giang), nhưng cũng có người nói quê ông ở Trà Lọt (H.Cái Bè) hoặc Mỏ Cày (Bến Tre)…
|
Tương truyền ông có biệt tài “đi thiếp”, tự làm mình như chết rồi sống lại, rồi thuật nhiều chuyện lạ lùng, nên còn gọi là ông Năm Thiếp, tín đồ tôn ông là Đức Bổn sư. Năm 1870, Đức Bổn sư chính thức “phát phái” cho những người quy y theo đạo. Hai năm sau, ông tập hợp tín đồ đến vùng Thất Sơn để khai phá, trồng tỉa, lập thêm thôn xóm như thôn An Định tại núi Tượng, thôn An Hòa, An Thành. Để có chỗ dựa tinh thần, ông cất một số cơ sở chùa chiền để chúng dân có chỗ tu hành.
Năm 1878, ông về chùa Hiếu Nghĩa ở làng Hòa Khánh, tổng Phong Hòa (Cái Bè) cùng một đệ tử người địa phương tên là Nguyễn Văn Vi, thường gọi ông Đạo Tư, tổ chức một cuộc lễ làm chay có đến 2.000 người dự. Thực tế đây là cuộc lễ cúng tế những nghĩa sĩ đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa hồi tháng 5.1885 của nghĩa quân làng An Định. Lúc đăng đàn thuyết pháp, Bổn sư Ngô Lợi kêu gọi mọi người hưởng ứng nổi lên chống lại giặc Lang sa cướp nước. Đồng thời để xây dựng phong trào và phát triển lực lượng, ông cấp phát cho hai đệ tử thân tín của mình là Lê Văn Ong và Võ Văn Khả hai cấp bằng Lãnh binh và Phó lãnh binh. Cả ba người Nguyễn Văn Vi, Lê Văn Ong và Võ Văn Khả nguyên là thuộc tướng của Thiên Hộ Dương.
Sau đó Lê Văn Ong và Võ Văn Khả về làng Tân Phú Đông, tổng Thuận Bình (Mỹ Tho) chiêu mộ nghĩa quân, tích trữ lương thực, mua sắm vũ khí, chờ thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa. Cai tổng Thuận Bình cho tay chân theo dõi và đến bắt được một số người nộp cho chính quyền cấp trên khai thác.
Khởi nghĩa không thành
Trước nguy cơ bại lộ, Lãnh binh Ong và Phó lãnh binh Khả quyết định khởi nghĩa. Chiều 30.4.1878, nghĩa quân tập trung tại làng Tân Phú Đông chờ lệnh. Thực dân Pháp hay tin vội điều động binh lực tăng viện cho đồn Thuộc Nhiêu và đồn Cai Lậy. Đích thân Chánh Tham biện Mỹ Tho chỉ huy một đội quân gồm 10 tên lính thủy và 38 lính mã tà với đầy đủ vũ khí dùng một tàu chiến theo sông Tiền tiến về Cai Lậy.
Ngày 2.5.1878, nghĩa quân làm lễ xuất quân ở bờ kinh Bà Bèo (vùng tiếp giáp Đồng Tháp Mười). Hàng trăm người vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác đánh trống reo hò, dùng kế nghi binh như sắp tấn công Cai Lậy. Nhưng thực tế đạo quân chủ lực lại tập trung ở làng Cửu Viễn, tổng Thuận Trị (nay là xã Thân Cửu Nghĩa, H.Châu Thành, Tiền Giang) để theo lộ Đông Dương tấn công vào Mỹ Tho. Trên đường tiến quân, nghĩa quân được nhân dân đi theo ủng hộ, thanh thế rất cao.
Cùng lúc đó, tín đồ đệ tử của Ngô Lợi ở Vũng Liêm (Vĩnh Long) cũng sẵn sàng nổi lên hưởng ứng và phối hợp chiến đấu. Theo tờ châu bản ngày mồng 1 tháng 6 năm Tự Đức thứ 31, hai viện Cơ mật và Thương bạc đã dâng lên vua Tự Đức một tờ bẩm về cuộc nổi dậy của “bọn phỉ” ở các xứ Tháp Mười, Cai Lậy và Vũng Liêm. Tờ bẩm này nói rõ bọn nổi lên phần nhiều người trong đạo Thích, nhưng khi hành binh dùng nhiều ảo thuật, hoặc kết cỏ thành hình nộm, sai cầm cờ, cầm kiếm, đánh trống reo hò tiếng người... (Châu bản triều Nguyễn tháng 4, ngày mồng 7 - viện Cơ mật (HTBC-No 2171) - Châu bản triều Nguyễn - Tư liệu Phật giáo - Lý Kim Hoa - NXB Văn hóa Thông tin 2003).
Tuy nhiên, nhờ có hệ thống “dây thép” nên thực dân Pháp đã được thông tin nhanh chóng và có sự chuẩn bị đối phó. Tham biện Mỹ Tho đã ra lệnh cho Đốc phủ Trần Bá Lộc dẫn quân đàn áp. Ông Lê Văn Ong rút về Tháp Mười tiếp tục chỉ huy kháng chiến. Ông Võ Văn Khả bị bệnh nặng phải lánh về quê nhà ở làng An Mỹ, tổng Lợi Thuận (nay là xã Phú An, H.Cai Lậy, Tiền Giang) điều trị. Nhưng sau đó quân Pháp đã bắt được hai ông và đem ra xử chém tại đồn Thuộc Nhiêu:
“Rủi ro Ong, Khả vận nghèo
Bắt đều chém tại Thuộc Nhiêu cựu đồn”.
(Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca - Nguyễn Liên Phong - 1909)
Sau cuộc khởi nghĩa, Trần Bá Lộc tổ chức các cuộc đàn áp gắt gao. Nhiều hương chức đã đem quỹ nộp cho nghĩa quân đều bị bắt tra tấn, tù đày. Làng Tân Phú Đông bị cắt chuyển về tổng Lợi Trinh, gần Cai Lậy để dễ kiểm soát hơn. Những tín đồ của Đức Bổn sư Ngô Lợi ở vùng Cai Lậy và Vũng Liêm phải rời địa phương tìm nơi khác lánh nạn. Theo nghiên cứu của nhà văn Sơn Nam, trong số này có 30 nghĩa quân lánh nạn ở núi Tượng (Châu Đốc). Ba chục người này đã khai phá lập một xóm nhỏ gọi là xóm Ba Chục, về sau phát triển thành làng xã, nói trại thành Ba Chúc, tức thị trấn Ba Chúc bây giờ. Do đó, ngày nay khi đến Ba Chúc hỏi thăm có nhiều người cho biết quê quán của mình ở vùng Cai Lậy hoặc Bến Tranh, tỉnh Tiền Giang.
Theo ông Nguyễn Văn Thắm, ông từ quản lý chăm sóc miếu Vạn Ban bên chân núi Tượng, hiện nay quanh núi Tượng có khoảng vài ngàn tín đồ Tứ ân hiếu nghĩa. Những người có trách nhiệm trong đạo đều để tóc để râu - biểu thị tâm huyết giữ gìn cổ tục của người xưa.
Ngọc Phan - Hoàng Phương
Bình luận (0)