Hôm qua 25.2, một trong 3 đơn vị xếp hạng tín nhiệm tín dụng uy tín nhất thế giới là S&P Ratings đã công bố báo cáo mới về nền kinh tế VN giữa bối cảnh kinh tế toàn cầu đang đối mặt nhiều thách thức.
Tiềm năng lớn
Theo đó, S&P ước tính tiềm năng tăng trưởng của VN ở mức cao tiếp tục trong thập niên tới sau khi đạt mức tăng trưởng 7,1% vào năm 2024 ngay cả trong bối cảnh thị trường bất động sản chưa có nhiều khởi sắc.
Cơ sở nền tảng của đà tăng này là sản xuất định hướng xuất khẩu mở rộng nhanh chóng, giúp neo giữ cán cân thương mại và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của VN. Theo xu thế đa dạng hóa chuỗi cung ứng bên ngoài Trung Quốc, VN và các đối tác doanh nghiệp (bao gồm cả các công ty đa quốc gia lớn trên toàn cầu) đang nhanh chóng chuyển đổi điểm đến của nguồn vốn đầu tư. Năm 2024, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào VN đạt 38 tỉ USD, tương đương 8% GDP. Tính từ năm 2010, FDI vào VN trung bình đạt 10% GDP.
Một yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng cho VN là lực lượng lao động. Sự sẵn có của lực lượng lao động ở nông thôn (và các khu vực và lĩnh vực thu nhập thấp khác) có thể trở thành nguồn nhân lực cho các khu vực thành thị hoặc công nghiệp. Đây là nền tảng cho sản xuất thâm dụng lao động và chi phí thấp. Lực lượng lao động đã cho thấy có thể nâng cao chất lượng thông qua đào tạo, góp phần tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài vào khả năng hấp thụ đầu tư hơn nữa của nền kinh tế VN.

FDI được đánh giá là một động lực quan trọng cho kinh tế VN phát triển
ẢNH: NGỌC THẮNG
Kèm theo đó, thu nhập của người dân đi lên và nhu cầu trong nước ngày càng lớn góp phần tăng cường nhu cầu lao động ở đô thị, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng. Năm 2024, tiêu dùng tư nhân VN thực tế tăng 6,7%, tăng mạnh so với mức 3,4% của năm 2023 - vốn được xem là đỉnh điểm về sự trì trệ của thị trường bất động sản trong nước.
Tuy nhiên, báo cáo của S&P Ratings cũng chỉ ra những thách thức ẩn chứa rủi ro cản trở sự tăng trưởng của VN, mà nổi bật trong đó là vấn đề cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế.
Theo đó, VN được cho là cần tăng gấp đôi công suất điện vào năm 2030 và mở rộng gấp 6 lần vào năm 2050 (so với mức năm 2022). VN đang hướng đến các mục tiêu chuyển đổi năng lượng. Ước tính đến năm 2050, VN cần có tổng chi tiêu lên đến 535 tỉ USD để đáp ứng các mục tiêu này.
Khu vực gặp khó vì chính sách thuế của Mỹ
Trong khi đó, S&P Ratings cũng vừa có báo cáo mới về kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APAC) - khu vực được cho là có một số nền kinh tế có thể nằm trong tầm ngắm của Mỹ về các biện pháp phòng vệ thương mại. Nổi bật cho rủi ro vừa nêu là có thể chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump đưa vào danh sách cần áp thuế tương ứng "có đi có lại" mà Nhà Trắng thông báo gần đây.
S&P Ratings dự báo chính sách trên của Mỹ có thể áp dụng với nhiều nền kinh tế trong khu vực, ở phạm vi rất rộng. "Đánh giá của chúng tôi về các tiêu chí chính trong kế hoạch dự kiến của Mỹ cho thấy một số nền kinh tế APAC dễ bị tổn thương bởi thuế quan - đáng chú ý là Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Nhật Bản, Thái Lan…", theo kinh tế gia cấp cao Vishrut Rana của S&P Ratings.
Tương tự, một báo cáo vừa được công bố bởi Công ty phân tích Moody's (Mỹ) dự báo: APAC sẽ chịu tác động của thuế quan nhiều hơn hầu hết các khu vực khác, do sự phụ thuộc sâu sắc vào thương mại. Tại khu vực này, xuất khẩu đã thúc đẩy tăng trưởng trong nhiều thập niên qua và cũng góp phần cho sự phục hồi hậu đại dịch Covid-19. Điều này có nghĩa là các biện pháp phòng vệ thương mại ở các thị trường quan trọng như Mỹ có thể ảnh hưởng sâu sắc đến các nền kinh tế của APAC. Trong khi đó, tiêu thụ nội địa của hầu hết các nền kinh tế ở khu vực đều còn giới hạn.
Công ty phân tích Moody's dự báo tăng trưởng trên toàn bộ nền kinh tế APAC sẽ chậm lại vào năm 2025 do căng thẳng thương mại, thay đổi chính sách và sự phục hồi không đồng đều của các nền kinh tế. Dự báo, tăng trưởng của khu vực từ mức gần 4% vào năm 2024 sẽ giảm còn 3,7% vào năm 2025, 3,5% vào năm 2026.
Ngoài ra, tuy lạm phát đã giảm ở APAC, cho phép các ngân hàng trung ương thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ, nhưng sự mất giá nội tệ và lạm phát giảm chậm có thể khiến việc nới lỏng tiền tệ bị giới hạn.
Bình luận (0)