Lắt léo chữ nghĩa: Phi trường, sân bay, cảng hàng không

10/06/2018 08:00 GMT+7

Trong tiếng Việt hiện đại, sân bay là một danh ngữ đồng nghĩa với phi trường .

Sẽ thật là sai lầm nếu cho rằng đó là đặc sản của miền Bắc, xuất hiện theo khuynh hướng “Việt hóa” từ ngữ để chống lại hiện tượng được xem là lạm dụng các yếu tố Hán - Việt.
Thực ra, từ lâu sân bay đã là một danh ngữ của tiếng Việt toàn dân. Bằng chứng là nó đã được ghi nhận trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (Sài Gòn, 1970) và Tự-điển Việt-Nam của Ban Tu thư Khai trí (Sài Gòn, 1971), cả hai đều được soạn và ấn hành tại miền Nam trước 1975. Còn bây giờ thì sân bay đã được dùng đều trời từ bắc chí nam, trừ trường hợp của một số người Mỹ gốc Việt. Thay vì sân bay, họ vẫn xài phi trường. Nhưng đây đương nhiên không phải là tiếng Việt toàn dân hiện đại.
Phi trường thì hiển nhiên là một cấu trúc Hán - Việt chính tông. Trong tiếng Hán, nó được gọi là phi hành trường [飛行場], mượn từ tiếng Nhật, và phi cơ trường [飛機場]. Còn chính phi cơ trường thì lại được Trung Quốc rút ngắn thành cơ trường [機場]. Tiếng Hán còn có hàng không trạm [航空站] và không cảng [空港] nhưng ở đây chúng tôi xin không đi vào sự khác nhau về chi tiết giữa những cách gọi này. Chỉ xin nhấn mạnh rằng trong khi Trung Quốc rút ngắn phi cơ trường thành cơ trường thì ta lại rút ngắn thành phi trường; đồng thời phi trường không trực tiếp liên quan đến phi hành trường vì đây là một khái niệm tổng quát còn phi cơ trường (phi trường) mới chính cống là “sân [máy] bay”.
Hiện nay, hai tiếng sân bay đã trở thành thông dụng, không chỉ trong ngôn ngữ nói, mà cả trên các phương tiện truyền thông, nghĩa là, nói chung, trong cả ngôn ngữ viết: “Y án sơ thẩm với nhóm khủng bố sân bay Tân Sơn Nhất”, “Sân bay Heathrow chào đón chuyến bay Hà Nội - London đầu tiên”, “Sân bay Newark Liberty ở Mỹ phải đóng cửa do sự cố máy bay”, “Thất lạc túi hành lý có chất nổ ở sân bay Charles de Gaulle”…
Với công dụng rộng rãi như trên của sân bay thì, tuy chưa đến nỗi thực sự trở thành một từ cổ (archaism), phi trường cũng đã là một từ lỗi thời (obsolete). Nhưng hiện nay, trong thực tiễn của tiếng Việt, ta thấy cũng đã xuất hiện xu hướng dần dần thu hẹp phạm vi sử dụng của hai tiếng sân bay, trước nhất là trong tên gọi chính thức. Sân bay, tiếng Anh là aerodrome (Commonwealth English), airdrome (American English) còn tiếng Pháp là aérodrome. Nhưng ngày nay, sức chứa của rất nhiều “sân bay” đã “bung” ra rất mạnh và những hoạt động, dịch vụ tại đây cũng trở nên đa dạng hơn “thời xưa” nhiều, làm cho “sân bay/ aerodrome/airdrome/aérodrome” không còn là cái tên thích hợp nữa nên trong tiếng Anh, tiếng Pháp người ta đã “nâng cấp” danh từ mà gọi chúng là airport (Anh), aéroport (Pháp). Chính danh từ “châu Âu” này đã được dịch sang tiếng Việt thành cảng hàng không. Đây mới là cái tên xứng đáng dành cho các sân bay hiện đại. Vì vậy, tuy trong ngôn ngữ thông thường người ta vẫn gọi Nội Bài và Tân Sơn Nhất là “sân bay” nhưng tên chính thức của nó là Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng...
Cảng hàng không còn có thể được gọi là không cảng hoặc phi cảng.
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.