Trước nhất xin nói về chữ độ mà Hán tự là [渡]. Đây là một chữ hình thanh mà nghĩa phù là bộ thủy [氵] còn thanh phù là chữ độ [度] bộ nghiễm [广]. Độ có nghĩa gốc là “qua sông, sang sông” (nên mới thuộc bộ thủy). Với nghĩa này, tiếng Hán có danh ngữ bôi độ [杯渡], vốn dùng để chỉ một vị cao tăng thời Tống mà người đời không biết danh tính nhưng tương truyền là thường ngồi trên một chiếc chén nhỏ bằng gỗ để qua sông. Thế nên mới gọi ngài là Bôi Độ. Xét theo từng chữ thì bôi độ là “qua sông bằng chén”. Rồi về sau người ta lại đặt ra danh ngữ độ bôi [渡杯] - mà nghĩa đen là “[cái] chén dùng để qua sông” - để chỉ những vật dụng mà các nhà sư thường mang theo người để ngao du sơn thủy.
tin liên quan
Lắt léo chữ nghĩa: Cần vọt là cái gì?Thực ra, với cái nghĩa này thì chữ độ [度] chỉ là một cách dịch, chuyển ngữ từ tiếng Sanskrit pāramitā (cũng có hình thức phiên âm là ba la mật đa), mà nghĩa gốc là “sang đến bờ bên kia”, nên cũng còn dịch thành đáo bỉ ngạn.
Chữ/từ độ này [渡→度] có một điệp thức là đò trong tiếng Việt, mà nếu theo lý thuyết được ưa chuộng hiện hành thì được xem là một từ “Hán Việt Việt hóa”.
Đây chính là từ đò trong chèo đò, lái đò, đò dọc, đò ngang, bến đò… (xin ghi là đò 1), đồng âm với đò trong ngữ vị từ giả đò” (xin ghi là đò 2). Trong tiếng Việt hiện đại thì hai tiếng giả đò chỉ còn được dùng phổ biến trong Nam và được Từ điển từ ngữ Nam Bộ của TS Huỳnh Công Tín (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009) giảng là “giả vờ, làm ra vẻ bề ngoài vậy nhưng không phải thế”. Nhưng đây không phải là một đơn vị từ vựng “tự phát” của miền Nam, mà là một lối nói do lưu dân đem từ Đàng Ngoài vào. Bằng chứng là nó đã được dùng làm thành phần đối dịch trong Dictionarium Latino-Annamiticum của M.H.Ravier (Ninh Phú, 1880) tại các mục:
- Simulati-o [...] 1. Sự giả đò [...].
- Simulat-or [...] 2. Kẻ giả đò [...].
- Simul-o [...] Simulare somnum. Giả đò ngủ [...].
Nhưng đò 2 là gì? Xin thưa nó là điệp thức của chữ/từ độ [度] nguyên sơ (không dính dáng gì tới bộ thủy [氵] mà Hán-Việt tự điển của Thiều Chửu giảng là “Dáng dấp. Như thái độ.” Còn Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S.Couvreur thì dịch là “tenue extérieure” (dáng dấp, tư thế [bên ngoài]). Vậy đò 2 là “vẻ ngoài, dáng dấp, tư thế...”, đúng với lời giảng trong từ điển của TS Huỳnh Công Tín.
Bình luận (0)