Hình thức đầy đủ của từ này là bát-đa-la [鉢多羅], phiên âm từ tiếng Sanskrit pātra, có nghĩa như đã nói ở trên. Đi vào tiếng Việt thì, đặc biệt là ở miền Bắc, bát lại dùng để đựng cơm và/hoặc thức ăn của người dân bình thường, còn Tàu thì gọi cái bát (của dân thường) là oản [盌, 椀], đọc theo âm Hán Việt.
Nhưng trong tiếng Việt thì oản không còn có nghĩa là “bát” nữa mà lại là thứ được Việt Nam tự điển của Khai trí Tiến đức giảng là “lễ - phẩm làm bằng xôi, đóng vào khuôn thành hình tròn”, với những ví dụ như Giữ bụt thì ăn oản, Đếm bụt mà đóng oản...
Lời giảng của Việt Nam tự điển rất sát với nghĩa gốc của chữ oản trong tiếng Việt, mà trong ví dụ, ta thấy có ngữ vị từ đóng oản.
Đóng oản là “đóng xôi bằng oản (= bát) dùng làm khuôn”, do đó mà oản mới “thành hình tròn”. Nhưng ngày nay thì oản có thể có “hình” khác, mà cũng có thể làm bằng chất liệu khác, như ta thấy trong lời giảng của Từ điển tiếng Việt 2020 của Trung tâm Từ điển học do Hoàng Phê chủ biên: “Xôi hoặc bột bánh khảo được nén chặt vào khuôn, đóng thành khối nhỏ hình nón cụt để cúng”. Hiện nay, cái thứ oản “hình nón cụt” và “làm bằng bột bánh khảo” này được quảng cáo khá nhiều trên mạng xã hội nhưng xin nhấn mạnh rằng đây chỉ là hệ quả của một sự “cải biên” mô-đéc chứ cái chất liệu truyền thống chỉ là nếp nấu (đồ) thành xôi còn khuôn thì chỉ là oản, tức cái bát.
Bát, trong Nam gọi là chén, do đó mà ta có danh ngữ đẳng lập chén bát. Chén là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ [琖] hoặc [盞], mà âm Hán Việt là trản, có nghĩa gốc là “chung nhỏ dùng để uống rượu”. Về quan hệ TR ↔ CH giữa trản và chén, ta còn có nhiều dẫn chứng: - trà trong trà dư tửu hậu ↔ chè trong rượu chè; - trá [榨], đồ dùng để ép lấy nước ↔ che là dụng cụ dùng để ép mía lấy nước; trá [詐], giả dối ↔ chả trong chả chớt (= nửa đùa nửa thật); - trai trong trai giới ↔ chay trong chay mặn; - trảm trong xử trảm ↔ chém trong chém đầu... Còn về vần AN ↔ EN thì ngay từ năm 1948, Vương Lực đã chứng minh tại thiên Hán Việt ngữ nghiên cứu, về sau in trong Hán ngữ sử luận văn tập (Khoa học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1958, tr.290 - 406), mà chúng tôi đã nhiều lần nhắc đến.
Ngoài Bắc, người ta vẫn dùng chén theo cái nghĩa “chung nhỏ” nhưng đi vào Nam thì chén đã được “thổi phồng” thành cái bát. Chính vì thế cho nên khi đi hốt thuốc khách hàng được dặn, chẳng hạn “sắc 3 chén, còn 7 phân”, nghĩa là đổ 3 chén nước vào các vị thuốc đã trút vào siêu (ấm) rồi canh chừng còn 7 phần 10 chén thì chắt ra cho người bệnh uống. Chén ở đây là bát chứ không phải cái chung nhỏ xíu.
Cứ như trên thì ngoài Bắc, chén và chung được mặc nhận là đồng nghĩa còn trong Nam nhiều khi người ta lại “cáp đôi” hai từ này với nhau kiểu chính phụ thành chén chung mà Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng là “Chén nhỏ nguyên bộ bốn hoặc ba cái để cúng trà”. Chung là một từ Hán Việt mà chữ Hán là [鍾], có nghĩa là “chén nhỏ để uống rượu”.
Bình luận (0)