Ngày 6.10.2018 đã diễn ra Quốc tang nguyên Tổng bí thư, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười. Cũng ngày này, 43 năm về trước là ngày thành lập Ban Biên giới của Hội đồng Chính phủ, tiền thân của Ban Biên giới Chính phủ và Ủy ban Biên giới quốc gia sau này. Đây chỉ là sự tình cờ nhưng khiến tôi nhớ lại sự quan tâm và những ý kiến chỉ đạo của đồng chí Đỗ Mười trong công cuộc bảo vệ lãnh thổ biển đảo Tổ quốc.
Khi Ban Biên giới Chính phủ được thành lập, trụ sở làm việc đặt tại tầng 3 tòa nhà Văn phòng Chính phủ và chúng tôi đôi lúc được gặp đồng chí Đỗ Mười khi ông là Phó chủ tịch rồi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Những quyết định chiến lược
Tôi nhớ lần đầu tiên tham dự cuộc họp với đồng chí Đỗ Mười vào năm 1985 về việc tổ hợp công ty 7 nước dự định đặt 550 hải lý đường dây cáp quang ngầm Sin-Hon-Tai qua vùng Đặc quyền kinh tế của nước ta. Theo Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS), các quốc gia được quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm trong các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia khác. Chính vì vậy, một số nước tham gia dự án đặt cáp không muốn thông báo cho phía Việt Nam. Trong bối cảnh UNCLOS mới được ký kết, chưa có hiệu lực vì chưa đủ 60 quốc gia phê chuẩn, chúng tôi phải nghiên cứu thận trọng và báo cáo đầy đủ với đồng chí Đỗ Mười, khi đó là Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Trong giai đoạn đồng chí Đỗ Mười làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1988-1991) và Tổng bí thư (1991-1997), đất nước ta có nhiều sự kiện về biên giới lãnh thổ, biển đảo. Trên cương vị của mình, đồng chí Đỗ Mười đã có rất nhiều việc làm, quyết định có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ, gìn giữ lãnh thổ biển đảo của Tố quốc.
Năm 1988, Trung Quốc xâm chiếm một số đảo chìm ở quần đảo Trường Sa và các chiến sĩ của chúng ta đang giữ Gạc Ma đã anh dũng hy sinh. Chúng ta đã đấu tranh quyết liệt với hành động trắng trợn của Trung Quốc, từng bước tăng cường sự có mặt để bảo vệ các đảo ở Trường Sa và thềm lục địa phía nam. Đồng chí Đỗ Mười đã tích cực ủng hộ xây dựng các nhà dàn DK trên thềm lục địa khu vực Tư Chính, bác bỏ những ý kiến còn băn khoăn. Ngày 5.7.1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười ban hành Chỉ thị số 180 UT về xây dựng cụm dịch vụ kinh tế-khoa học kỹ thuật thuộc Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo bao trùm lên các bãi đá ngầm trên thềm lục địa khu vực Tư Chính. Đây là việc làm có ý nghĩa chiến lược, nhằm có mặt một cách thật sự bảo vệ thềm lục địa quan trọng của Viêt Nam. Việc này càng có giá trị khi Trung Quốc ngày 8.5.1992 ngang ngược kí với công ty Crestone (Mỹ) thăm dò khai thác một lô rộng 25.255 km2 ở khu vực thềm lục địa Tư Chính của Việt Nam.
|
Khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa-Trường Sa
Giữa Việt Nam và Trung Quốc tồn tại 3 vấn đề lớn về biên giới lãnh thổ là biên giới đất liền, phân định vịnh Bắc Bộ và vấn đề Biển Đông. Đây là những vấn đề rất phức tạp và hệ trọng, gây ra nguy cơ mất ổn định ảnh hưởng tới hòa bình, phát triển của đất nước. Chính vì vậy, ngay sau khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, một trong những ưu tiên của đất nước ta là giải quyết những trở ngại đó. Ngày 7.11.1991, trong chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã đặt vấn đề và thỏa thuận với Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân: “Hai bên đồng ý thông qua thương lượng giải quyết hòa bình vấn đề biên giới lãnh thổ tồn tại giữa hai nước”, theo sách Biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc (NXB Công an Nhân dân). Sau khi hai bên ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết những vấn biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc tháng 10.1993, các diễn đàn đàm phán về 3 vấn đề nói trên được mở ra.
tin liên quan
Dù tính cách khác nhau, nhưng cụ Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt rất hợp nhau
Mặt khác, trước nhu cầu bảo vệ biển đảo của Tổ quốc và phối hợp các bộ ngành, địa phương phát triển kinh tế biển, Lãnh đạo Đảng và Nhà nước quyết định thành lập Ban chỉ đạo Biển Đông-Trường Sa (năm 1992) do Phó thủ tướng Trần Đức Lương làm Trưởng Ban. Thành viên Ban chỉ đạo gồm có lãnh đạo các bộ ngành quốc phòng, ngoại giao, công an, dầu khí, một số ban của Đảng được mời tham gia khi có liên quan...Ban Biên giới Chính phủ làm thường trực Ban chỉ đạo và tôi được giao nhiệm vụ Phụ trách văn phòng Ban chỉ đạo.
Ngày 6.5.1993, Bộ Chính trị do đồng chí Đỗ Mười đứng đầu ban hành Nghị quyết số 03 NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế trong những năm trước mắt. Theo tinh thần của Nghị quyết, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 398 ngày 5.8.1993 thành lập Ban chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và các hải đảo, trên cơ sở Ban chỉ đạo Biển Đông -Trường Sa được mở rộng và trao thêm nhiệm vụ chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế biển.
Ban chỉ đạo Nhà nước có thêm thành viên là lãnh đạo Bộ Thủy sản, Kế hoạch, Tài chính, Giao thông Vận tải... Ban chỉ đạo trong những năm đó thực sự hoạt động có hiệu quả trong việc phối hợp các bộ ngành, địa phương phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế biển đảo, tăng cường bảo vệ chủ quyền và quyền lợi quốc gia. Có thể nói các đảo, đá trong quần đảo Trường Sa và hệ thống các đảo ven bờ như Vân Đồn, Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Cồn Cỏ, Phú Quí, Phú Quốc, Thổ Chu... phát triển được như ngày nay có một phần đóng góp không nhỏ của Ban chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và các hải đảo.
|
Một sự kiện có ý nghĩa đối với biển đảo Việt Nam là ngày 23.6.1994, Quốc hội phê chuẩn UNCLOS. Nghị quyết phê chuẩn Công ước của Quốc hội hàm chứa chính sách về biển và giải quyết vấn đề 2 quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa. Tôi còn nhớ các vị lãnh đạo, trong đó có đồng chí Đỗ Mười đã chỉnh sửa văn bản Nghị quyết không dưới 30 lần. Trong Nghị quyết có nhấn lại quan điếm của Tổng bí thư Đỗ Mười đã nêu ra với các nước là “khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng Luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982, tôn trọng quyền chủ quyền ,quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa .Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài các bên liên quan cần duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình,không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”.
Biên giới lãnh thổ là việc hệ trọng của quốc gia nên thường các vấn đề được báo cáo lên lãnh đạo cấp cao và cán bộ về biên giới hay được triệu tập khi cần. Chiều 19.10.1994, tôi có mặt trong phiên họp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về hoạt động của nước ngoài trên Biển Đông và đối sách của ta .Tôi ấn tượng về cách điều hành cuộc họp của Tổng bí thư Đỗ Mười khi không khí thường là sôi nổi tích cực. Đồng chí nêu những vấn đề cần bàn để các thành viên có thể bày tỏ ý kiến và chốt lại những điểm quan trọng để triển khai.
Vấn đề vịnh Bắc bộ
Tổng bí thư Đỗ Mười luôn quan tâm thúc đẩy giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ với Trung Quốc và đã thỏa thuận với Tổng bí thư Giang Trạch Dân về “tiến tới ký Hiệp định về biên giới trên bộ trước năm 2000...; thực hiện phân định vịnh Bắc Bộ một cách công bằng hợp lý, chậm lắm là năm 2000”. Trong phiên họp của Bộ Chính trị ngày 6.8.1998 về chủ trương cơ bản trên Biển Đông và biên giới trên bộ với Trung Quốc, đồng chí Đỗ Mười, khi đó là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, đã khẳng định lại: “Tôi đã thỏa thuận với Tổng bí thư Giang Trạch Dân: làm sao giải quyết phân định vịnh Bắc bộ trong năm 2000”. Phiên họp đó tôi được tham dự và các đồng chí Văn phòng Trung ương Đảng đề nghị tôi làm bản ghi chép để lưu trữ vì bàn đến vấn đề chuyên môn biên giới lãnh thổ.
Để thực hiện quyết tâm của lãnh đạo cấp cao, từ năm 1992-2000, riêng về phân định vịnh Bắc bộ, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành 7 vòng đàm phán cấp Chính phủ, 3 cuộc gặp Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ, 18 vòng đàm phán cấp chuyên viên và rất nhiều vòng họp của Tổ chuyên viên liên hợp, Tổ chuyên gia đo vẽ và xây dựng Tổng đồ vịnh Bắc bộ.
Ngày 25.12.2000 tại Bắc Kinh, 2 nước đã ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc bộ giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa. Sự ra đời của hiệp định có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo môi trường hòa bình ổn định để phát triển đất nước. Hiệp định là cơ sở pháp lý quốc tế để chúng ta bảo vệ, quản lý khai thác tài nguyên vịnh Bắc bộ phục vụ sự phát triển kinh tế đất nước.
Trong thế kỉ 21 này, nhân loại đang hướng ra biển để sinh tồn và phát triển. Việt Nam cũng đã có Chiến lược Biển của mình. Đất nước đạt được thành tựu về biển đảo như hiện nay, một phần nhờ sự quan tâm và những quyết sách của đồng chí Đỗ Mười - nhà lãnh đạo có tấm lòng đối với biển đảo thân yêu của Tổ quốc.
Bình luận (0)