Những đường dẫn nào là chỉ dấu đưa ông tới con đường nghiên cứu văn hóa Chăm-pa?
-Tôi là người Chăm, sinh ra và lớn lên trong gia đình, xã hội mẫu hệ nên có sự khác biệt so với xã hội phụ hệ phổ biến ở Việt Nam. Bố tôi vốn là thầy cúng, nghệ nhân kéo đàn Ka-nhi đã dạy tôi biết chữ Chăm từ thời niên thiếu. Mẹ là nghệ nhân làm gốm và bà nội tôi là người rất mộ đạo. Khi có lễ hội, bà thường đội mâm quả, dẫn tôi đi cùng. Cứ thế, những hình ảnh của ngôi tháp Chăm cổ kính, những lời ca, tục cúng của lễ hội từ từ thấm sâu vào ký ức tôi lúc nào không hay.
Sau này vào ĐH, tôi may mắn được học nhiều người thầy là những nhà nghiên cứu uy tín, rất quan tâm đến văn hóa Chăm như cố GS. Trần Quốc Vượng, GS. Ngô Đức Thịnh, GS. Ngô Văn Lệ… đã truyền lửa cho tôi và đặc biệt cố GS. Phan Đăng Nhật đã tận tình hướng dẫn và đồng hành cùng tôi cho đến khi ông mất.
Cách thức riêng mà ông chọn cho mình là gì, để bổ khuyết vào kho tàng để lại của tiền bối?
- Giới nghiên cứu phương Tây có câu: "Chúa nằm trong các chi tiết". Xem nhẹ cái chi tiết, cái cụ thể…, đó cũng là điểm yếu cố hữu thường thấy trong văn hóa làm việc của ta so với phương Tây hay các nước phát triển khác. Đối với tôi, khi nghiên cứu vấn đề phải bắt đầu đi tìm hiểu, nghiên cứu sâu từng chi tiết cụ thể thì mới có thể phát hiện ra cái khác biệt, đặc sắc. Ngoài thời gian giảng dạy, tôi còn đi điền dã sưu tầm tài liệu ở vùng Chăm và Tây Nguyên. Hàng ngày ở nhà tôi cặm cụi soi rọi, góp nhặt và phân tích từng chữ một trong hàng ngàn trang tài liệu để khám phá ra cái mới. Từ đó chọn lọc, phân tích, sắp xếp dần thành chuỗi vấn đề có hệ thống khoa học. Sau đó mới đúc kết thành lý thuyết, vạch ra hướng tiếp cận nghiên cứu văn hóa – lịch sử Champa. Kết quả, đến nay tôi hình thành được bộ sách văn hóa – lịch Champa và những bộ sách khác gần 40 tập.
Di sản Champa hiện còn lại những gì, trong và ngoài biên giới Việt?
- Xuất hiện vào thế kỷ 2, văn minh Champa từng phát sáng rồi vụt tắt vào đầu thế kỷ 19, để lại một chuỗi dài di tích khoảng 250 đền tháp ở miền Trung đang mang trong mình nhiều điều bí ẩn chưa được giải mã. Ngoài ra còn khoảng 84 lễ hội đặc sắc mà tiêu biểu là lễ hội Katé - lễ Ramawan/Ramadan vẫn còn diễn ra hàng năm; hai làng nghề nổi tiếng là gốm Bàu Trúc và dệt Mỹ Nghiệp ở Ninh Thuận.
Đến nay, văn hóa Chăm vẫn còn có sức lan tỏa lớn trong văn hóa người Việt ở miền Trung như tục thờ mẫu Thiên Y Ana (điện Hòn Chén – Huế; lăng Thu Bồn – Quảng Nam, tháp Bà - Nha Trang); nghệ thuật múa hát (hò Huế, ca Huế, Bà Chòi và Hát Bội, múa nón), áo dài với chiếc nón bài thơ; kỹ thuật đóng thuyền, đi biển, làm muối, làm nước mắm...
Văn hóa Champa còn lan đến xứ Bắc, góp phần hình thành nên nền văn hóa Thăng Long rực rỡ một thời. Cho đến nay các nhà khoa học đã khám phá ra nhiều di tích, di vật mang dấu ấn Champa trên đất Thăng Long như Hoàng Thành Thăng Long, chùa Bà Già, chùa Bà Đanh, đình Phú Gia… hay chùa Dạm (Bắc Ninh)…
Champa còn mang âm nhạc đến dạy cho Nhật Bản (Phật triết) vào thế kỷ 7 và dạy người Nhật làm gốm tráng men màu vào thế kỷ X. Ngoài ra, qua tài liệu cổ Trung Hoa và Đại Việt cho biết Champa còn là nơi phát tích lúa Chiêm mùa (lúa ngắn ngày gồm cả lúa chịu hạn và lúa nước), đã tạo ra cuộc cách mạng xanh ở vùng Hoa Nam (Trung Quốc), ở miền Bắc (Việt Nam) từ thế kỷ 10 và cả ở vùng Kelantan (Malaysia) vào thế kỷ 17.
Người Chăm cũng được thế giới thừa nhận là bậc thầy của nghề làm gạch (gạch xốp, nhẹ, không ngậm nước, không bị rong rêu bám); nghề chế biến chất kết dính và kỹ thuật xây dựng đền tháp bằng gạch thân thiện với môi trường. Nhiều tác phẩm điêu khắc đá của Champa như vũ nữ Apsara, tượng Bia Tapasi, tượng Phật Losketvara … đã trở thành kiệt tác của nhân loại.
Đến nay, di sản văn hóa Chăm không chỉ mang tầm quốc gia mà còn mang tầm quốc tế. Năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa vật thể thế giới; năm 2022, "Nghệ thuật làm gốm của người Chăm" cũng được UNESCO ghi danh vào di sản phi vật thể của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp.
Những bí ẩn nào trong lịch sử văn hóa Champa đang cần được giải mã?
-Theo chúng tôi, lịch sử Champa cần phải viết lại một cách có hệ thống hơn với góc nhìn liên ngành văn hóa - lịch sử. Dùng lịch sử, bối cảnh lịch sử để làm rõ đặc điểm văn hóa Champa trong từng thời kỳ; ngược lại dùng văn hóa để giải thích cho sự kiện và sự biến đổi của lịch sử Champa. Có như thế thì mới có thể làm rõ văn hóa – lịch sử Champa một cách toàn diện.
Tặng sách cho Hội Bảo Thọ của một làng Chăm ở Ninh Thuận, 2017
Với phương pháp và hướng tiếp cận đó, bằng nhiều nguồn tài liệu khác nhau như tài liệu cổ sử Trung Hoa, Đại Việt, Jawa, Mã Lai và bia ký cũng như tư liệu văn bản chữ Chăm, tôi đi sâu từng chi tiết, từng con chữ trong thời gian 30 năm để hình thành nên 4 tập sách Văn hóa- Lịch sử Champa do Quỹ đổi mới sáng tạo Vingroup (VinIF) tài trợ. Bộ sách không chỉ cho độc giả thấy tổng thể một nền văn hóa - lịch sử Champa từ vùng phía Bắc Champa (Indrapura - Huế) – Amaravati (Quảng Nam Đà Nẵng), Vijaya (Bình Định) đến vùng Panduranga – phía Nam Champa (Ninh Thuận và Bình Thuận hiện nay) theo cách nhìn liên bang (Mandala).
Bên cạnh đó, bộ sách còn giải mã những bí ẩn trong lịch sử Champa - Đại Việt mà nhiều thế kỷ qua các học giả đang còn bàn cãi, tốn nhiều giấy mực mà chưa có hồi kết như câu chuyện tình sử Huyền Trân công chúa với Chế Mân; bí mật quân sự nào mà Chế Bồng Nga 3 lần đánh chiếm Thăng Long; những nét độc đáo, mưu lược về võ thuật và nghệ thuật quân sự của Champa và Đại Việt trong lịch sử như thế nào…
Trong dự án Nghiên cứu, sưu tầm, xuất bản và lưu giữ những giá trị văn hóa - lịch sử của người Chăm Việt Nam, ông có chia sẻ tham vọng hoàn thành một bộ Bách khoa toàn thư về văn hóa - lịch sử Champa. Giá trị và thông điệp của công trình này?
- Nghiên cứu văn hóa - lịch sử Champa nói riêng và nghiên cứu khoa học nói chung cần nghiên cứu toàn diện và có hệ thống, trên các khía cạnh lịch sử, văn hóa, văn học, triết học, nghệ thuật, tôn giáo, kiến trúc, điêu khắc, làng nghề, y học cổ truyền… thì mới thấy hết được sự phong phú, đa dạng của nền văn hóa đồ sộ này. Muốn làm được điều này đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải nỗ lực hết mình với kiến thức liên ngành uyên thâm, sự cần mẫn quyết tâm với các chương trình nghiên cứu dài hạn.
Trong kỷ nguyên số, hy vọng việc đó sẽ lan nhanh, truyền cảm hứng cho độc giả, các nhà chuyên môn, cổ vũ họ cùng chung tay nghiên cứu, bảo tồn bản sắc văn hóa của dân tộc mình trong quá trình hội nhập.
Ông muốn để lại di sản gì trong đào tạo? Sau ông, liệu ai có thể tiếp bước trên con đường này?
- Di sản văn hóa Champa đồ sộ thế nhưng đáng tiếc là ở ta hiện chưa thực sự quan tâm đến việc đào tạo nghiên cứu văn hóa – lịch sử Champa, trong khi nhiều nước trên thế giới từ lâu đã có ngành Champa học và luôn có ghế giáo sư riêng giành cho ngành này, ví dụ như Pháp, Trung Quốc, Malaysia, Indonesia...
Chúng ta chưa có một viện nghiên cứu cấp trung ương mà chỉ có trung tâm nghiên cứu ở tỉnh lẻ mang biểu tượng hơn là thực chất khoa học. Các trường ĐH lớn ở ta cũng chưa có mã ngành này. Tôi hy vọng trong tương lai sẽ có ngành Champa học ở nước ta. Theo đó, những công trình của tôi đã xuất bản có thể góp thêm tài liệu vào để biên soạn giáo trình, sách chuyên khảo, hình thành kho dữ liệu để đào tạo sinh viên chuyên nghiên cứu về Champa học có chất lượng cao. Một khi chưa có trường, chưa có ngành đào tạo Champa học thì tìm đâu ra thế hệ trẻ nghiên cứu nối tiếp chuyên nghiệp.
Cũng may, trong những năm gần đây, nhờ có những quỹ tư nhân như VinIF với cách làm tài trợ, hỗ trợ thực sự nhanh gọn, chuyên nghiệp, hiện đại như các nước tiên tiến trên thế giới nên bước đầu đã sàng lọc, thu hút được những nhà nghiên cứu có tâm huyết, say mê khoa học với những sản phẩm cụ thể có hàm lượng khoa học cao, trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu Văn hóa – Lịch sử nói riêng.
Xin cảm ơn ông.
Bình luận (0)