Sau Thế chiến 2, bản Hiến pháp năm 1946 và đạo luật Tự quản địa phương năm 1947 đánh dấu bước đổi mới lớn về tổ chức hành chính của Nhật Bản theo xu hướng phi tập trung hóa quản lý các địa phương. Việc phân quyền cho các địa phương còn được gia tăng với hàng loạt cải cách sau thập niên 1990.
Đô, đạo, phủ, huyện
Dưới chính quyền trung ương, Nhật hiện có bộ máy chính quyền 2 cấp, gồm cấp khu vực và cấp cơ sở. Cấp khu vực gọi chung trong tiếng Việt là tỉnh và được xếp ngang nhau về mặt hành chính, dù mang các tên cụ thể khác nhau như đô (to), đạo (do), phủ (fu) và huyện (ken). Tokyo là đô, Hokkaido là đạo, Kyoto và Osaka là phủ, cùng 43 tỉnh còn lại hợp thành 47 đơn vị cấp tỉnh của Nhật Bản.
Các tỉnh có quy mô khác nhau về dân số và diện tích. Tokyo có hơn 13 triệu dân, trong khi Tottori có 580.000 dân. Về diện tích, Hokkaido rộng hơn 80.000 km2, còn Kagawa rộng chưa đến 2.000 km2, theo trang web Hội đồng Chính quyền địa phương về quan hệ quốc tế Nhật Bản (CLAIR).

Ga Tokyo tại trung tâm Tokyo
ẢNH: NGỌC MAI
Đóng vai trò trung gian giữa chính quyền trung ương và chính quyền cấp cơ sở, chính quyền cấp tỉnh chịu trách nhiệm chuyển tải các chính sách của trung ương về địa phương. Bên cạnh đó, chính quyền cấp tỉnh thực hiện trách nhiệm chi đối với các kế hoạch phát triển toàn vùng và cung ứng các dịch vụ công cộng quan trọng với quy mô vượt phạm vi cấp cơ sở như an ninh trật tự, cảnh sát, giao thông, bảo vệ môi trường, các dự án hạ tầng và phát triển kinh tế, xã hội có quy mô toàn tỉnh hoặc liên quan nhiều đơn vị cấp cơ sở.
Cấp cơ sở liên tục giảm
Ở cấp thấp hơn, chính quyền cơ sở gồm thành phố (shi), quận đặc biệt (ku), thị trấn (cho hoặc machi) và làng (son hoặc mura). Số tỉnh của Nhật không thay đổi từ thời kỳ Minh Trị (1868 - 1912), nhưng số địa phương cấp cơ sở giảm liên tục. Nhật từng có 70.000 địa phương cấp cơ sở trước khi giảm nhiều lần, xuống còn 3.229 vào năm 1999 và 1.741 vào năm 2023.
Về cơ bản, chính quyền cơ sở tại các địa phương không khác nhau về trách nhiệm. Tuy nhiên, đạo luật Tự quản địa phương nêu rõ thành phố phải có các tiêu chí như dân số hơn 50.000 người, kèm những điều kiện khác về hạ tầng, nghề nghiệp. Trách nhiệm chính của địa phương cấp cơ sở là cung cấp giáo dục phổ thông, cứu trợ xã hội, viện dưỡng lão cho người già, bảo hiểm dưỡng lão và bảo hiểm y tế quốc gia. Chính quyền địa phương còn có trách nhiệm quy hoạch đô thị, đường sá, cầu cống, cấp và thoát nước, xử lý chất thải, PCCC, cấp cứu y tế và đăng ký thường trú.
Để đảm bảo tiêu chuẩn dịch vụ chính quyền như nhau ở tất cả các địa phương cấp cơ sở, chính quyền trung ương chia một phần thuế quốc gia dựa trên khả năng tài chính của họ. Nguồn thu chính của cấp cơ sở là thuế địa phương, thuế phân bổ địa phương, chi tiêu của chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương.
Bầu cử
Tại các địa phương, cử tri trực tiếp bầu tỉnh trưởng/thị trưởng và các thành viên của hội đồng địa phương cho nhiệm kỳ 4 năm. Lãnh đạo chính quyền cấp tỉnh thường được gọi là tỉnh trưởng hoặc thống đốc, còn lãnh đạo chính quyền cấp cơ sở được gọi là thị trưởng. Theo CLAIR, tỉnh trưởng và thị trưởng chịu trách nhiệm đảm bảo tính nhất quán chung của các dịch vụ, chức năng của chính quyền địa phương và được ủy quyền đại diện cho chính quyền đối với bên ngoài. Tỉnh trưởng và thị trưởng kiểm soát chung đối với các cơ quan hành pháp như các ủy ban hành chính.
Những quyền hạn quan trọng được trao cho lãnh đạo các địa phương bao gồm ban hành các quy định, lập ngân sách, đưa ra các dự luật và bổ nhiệm các thành viên của các ủy ban hành chính, phó thống đốc, phó thị trưởng và các quan chức khác. Việc bổ nhiệm cấp phó phải được sự đồng ý của hội đồng địa phương.


Bình luận (0)