Những tình huống tiếp xúc dễ lây nhiễm bệnh bạch hầu

08/07/2024 18:31 GMT+7

Do dễ lây lan và biến chứng nguy hiểm, bạch hầu là bệnh truyền nhiễm bắt buộc phải khai báo. Cục Y tế dự phòng lưu ý một số tình huống tiếp xúc khiến vi khuẩn gây bệnh bạch hầu dễ dàng lây lan.

Mới đây, Nghệ An ghi nhận ca bệnh bạch hầu tử vong. Một ca tiếp xúc gần ca bệnh này đã được xác định dương tính với bạch hầu, là cô gái 18 tuổi ở Bắc Giang.

Báo cáo của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Bắc Giang cho biết, kết quả xét nghiệm đã xác định chị Moong Thị B. (18 tuổi, tạm trú tại thôn Trung Tâm, xã Hợp Thịnh, H.Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; thường trú tại H.Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An) dương tính với bạch hầu. Cô gái này là một trong 2 trường hợp tiếp xúc gần với ca tử vong do bệnh bạch hầu tại H.Kỳ Sơn (Nghệ An).

Những tình huống tiếp xúc dễ lây nhiễm bệnh bạch hầu- Ảnh 1.

Giả mạc trắng trong hầu họng bệnh nhân mắc bệnh bạch hầu

NHTD

Bạch hầu là bệnh truyền nhiễm bắt buộc phải khai báo

Chiều nay 8.7, Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) đã có công văn đề nghị Sở Y tế tỉnh Nghệ An và Bắc Giang tăng cường phòng chống bệnh bạch hầu. Trong tình huống cần thiết, Bộ Y tế sẽ phân bổ thuốc và hỗ trợ nhân lực phòng dịch cho hai tỉnh này.

Theo Cục Y tế dự phòng, bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục.

Đáng lưu ý, đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng của bệnh chủ yếu là do ngoại độc tố là chất độc do vi khuẩn bạch hầu gây ra.

Nguy cơ bùng dịch bạch hầu khi ca nhiễm liên tiếp ghi nhận ở Nghệ An, Bắc Giang

Ca bệnh khởi đầu có triệu chứng viêm họng, mũi, thanh quản. Họng đỏ, nuốt đau, da xanh, mệt, nổi hạch ở dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ.

Khám bệnh nhân, các bác sĩ sẽ thấy có giả mạc. Cần phân biệt tính chất của giả mạc bạch hầu với giả mạc mủ. Giả mạc bạch hầu thường trắng ngà hoặc màu xám dính chặt vào xung quanh tổ chức viêm, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu. Cho giả mạc vào cốc nước dù có khuấy mạnh cũng không tan.

Còn giả mạc mủ thì sẽ bị hòa tan hoàn toàn trong cốc nước. Vùng niêm mạc xung quanh giả mạc bị xung huyết.

Liên quan đến các tình huống lây nhiễm căn bệnh nguy hiểm này, Cục Y tế dự phòng cho biết, bệnh bạch hầu lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Đáng lưu ý, bệnh còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu.

Bạch hầu là một bệnh bắt buộc phải khai báo.

Những tình huống tiếp xúc dễ lây nhiễm bệnh bạch hầu- Ảnh 2.

Bạch hầu da

NHTD

Cách ly nghiêm ngặt ca bệnh, quản lý người tiếp xúc

Theo Cục Y tế dự phòng, tất cả bệnh nhân viêm họng giả mạc nghi bạch hầu phải được vào viện để cách ly đường hô hấp nghiêm ngặt cho đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn 2 lần âm tính với vi khuẩn gây bệnh.

Mỗi mẫu bệnh phẩm được lấy cách nhau 24 giờ và không quá 24 giờ sau khi điều trị kháng sinh. Nếu không có điều kiện làm xét nghiệm thì phải cách ly bệnh nhân sau 14 ngày điều trị kháng sinh.

Tại ổ dịch, người lành mang vi khuẩn, người tiếp xúc ca bệnh cần được quản lý y tế. Theo đó, những người tiếp xúc mật thiết với bệnh nhân phải được xét nghiệm vi khuẩn và theo dõi trong 7 ngày.

Cần tiêm một liều kháng sinh hoặc uống kháng sinh dự phòng từ 7 - 10 ngày cho những người đã bị phơi nhiễm với bạch hầu, bất kể tình trạng miễn dịch của họ như thế nào.

Trường hợp người tiếp xúc gần có xét nghiệm vi khuẩn thì phải được điều trị kháng sinh và tạm nghỉ việc tại các trường học hoặc cơ sở chế biến thực phẩm cho đến khi có kết quả xét nghiệm vi khuẩn âm tính.

Với những người tiếp xúc đã được gây miễn dịch trước đây (từng tiêm vắc xin bạch hầu) thì nên tiêm nhắc lại một liều giải độc tố bạch hầu.

Theo PGS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, bệnh bạch hầu đã có vắc xin từ nhiều năm qua. Trẻ nhỏ cần được tiêm vắc xin bạch hầu đầy đủ theo Chương trình tiêm chủng mở rộng. Tại nơi có dịch, cơ quan y tế sẽ triển khai tiêm vắc xin cho trẻ và người dân trên cơ sở đánh giá các yếu tố nguy cơ.

Xử lý y tế tại ổ dịch bạch hầu

Theo Hướng dẫn giám sát và phòng, chống bệnh bạch hầu do Bộ Y tế ban hành, ổ dịch bạch hầu là nơi (thôn, xóm, đội, tổ dân phố, ấp, khóm, đơn vị…) ghi nhận chỉ từ 1 ca bệnh xác định trở lên. Ổ dịch kết thúc khi không ghi nhận trường hợp mắc mới trong vòng 14 ngày kể từ ngày ca bệnh cuối cùng được cách ly y tế.

Về xử lý y tế tại nơi có ổ dịch, Bộ Y tế yêu cầu phải sát trùng tẩy uế đồng thời và sát trùng tẩy uế lần cuối tất cả các đồ vật có liên quan tới bệnh nhân. Tẩy uế và diệt khuẩn phòng bệnh nhân hàng ngày bằng chất sát khuẩn y tế như chloramin B.

Bát đĩa, đũa, chăn màn, quần áo phải được luộc sôi. Sách, vở, đồ chơi phải được phơi nắng.


Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.