Khi đọc những ký sự chiến trường của tác giả người Pháp, chúng ta thấy những sĩ quan hải quân Pháp được viết khá đúng theo cấp bậc đương thời, tức Tổng tư lệnh quân viễn chinh Nam kỳ bấy giờ mang hàm cao nhất là phó đô đốc hải quân (vice-amiral, tương đương lục quân trung tướng), thấp hơn là đề đốc (contre-amiral, tương đương lục quân thiếu tướng) như Bonard hay de La Grandière, tài liệu cũ dùng là “quan thủy sư đề đốc”. Tuy nhiên, trong những nghiên cứu của các học giả đời sau, khi nhắc đến những nhân vật lịch sử thuộc giới quân sự, hoặc các thống soái Nam kỳ, họ dùng cấp bậc sau cùng, vì vậy mà lực lượng hải quân Pháp ở chiến trường Đại Nam xuất hiện nhiều vị đô đốc (amiral, tương đương lục quân đại tướng).
Tư gia của Trương Vĩnh Ký ở Chợ Lớn, khoảng năm 1870 |
Bộ sưu tập của Terry Bennett |
Ngày 25.6.1862, khi công cuộc bình định Nam kỳ của liên quân Pháp - Tây Ban Nha vẫn đang tiếp diễn, Pháp hoàng Napoléon đệ tam đã cắt đặt chức thống soái (quân sự) Nam kỳ (tiếng Pháp: Gouverneur de la Cochinchine), đại diện cho ông tại đây, người đầu tiên được bổ nhiệm là Đề đốc hải quân Louis-Adolphe Bonard, đồng thời Bonard cũng được thăng hàm lên phó đô đốc. Một số bản đồ đương thời ghi chức danh Bonard là “Commandant en chef, Gouverneur en Cochinchine”, Đại Nam thực lục nhắc đến một số thống soái Nam kỳ đương thời là “Tổng thống Nam kỳ thủy, lục quân dân”. Kể từ ngày 14.5.1879 trở về sau, với sự xuất hiện của thống đốc dân sự đầu tiên của Nam kỳ là Charles Marie Le Myre de Vilers, chính thức kết thúc thời kỳ giới quân sự (đô đốc và thống soái (Amiraux et Gouverneurs)) cầm quyền kéo dài gần 20 năm ở Nam kỳ.
Chân dung Tổng trú sứ Paul Bert |
Joseph Chailley, Paul Bert au Tonkin, Paris, 1887 |
Thành lập chế độ bảo hộ ở Trung - Bắc kỳ
Trong ba xứ (pays) Nam - Trung - Bắc kỳ của Vương quốc Đại Nam (Việt Nam ngày nay) thời Pháp thuộc, Nam kỳ (Cochinchine theo cách gọi của người Pháp) chính thức trở thành thuộc địa (colonie) của Pháp sau Hiệp ước Giáp Tuất ký ngày 15.3.1874, còn Bắc kỳ (Tonkin theo cách gọi của người Pháp) và Trung kỳ (Annam theo cách gọi của người Pháp) là xứ bảo hộ (pays de protectorat) của Pháp sau Hiệp ước Giáp Thân ký ngày 6.6.1884 giữa Phụ chánh Nguyễn Văn Tường (đại diện triều đình Huế) và Patenôtre (đại diện phía Pháp), còn gọi là Hiệp ước Patenôtre. Cũng cần lưu ý rằng, năm 1834 vua Minh Mạng chỉ đặt danh xưng Bắc kỳ (Ninh Bình đến Lạng Sơn) và Nam kỳ (Biên Hòa đến Hà Tiên), không có danh xưng Trung kỳ.
Một năm rưỡi sau khi ký Hiệp ước Giáp Thân, ngày 27.1.1886 Tổng thống Cộng hòa Pháp ban hành sắc lệnh thành lập chế độ bảo hộ (protectorat) của Pháp ở vùng đất Bắc kỳ và Trung kỳ của vương quốc Đại Nam, đồng thời cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục Paul Bert được chọn làm Tổng trú sứ Trung - Bắc kỳ (Résident général en Annam et au Tonkin), một dạng “Toàn quyền lưỡng kỳ” trước khi có chức danh Toàn quyền Đông Dương gần 2 năm sau đó. Paul Bert là tổng trú sứ dân sự đầu tiên được bổ nhiệm.
Sắc lệnh ngày 27.1.1886 quy định cơ cấu tổ chức của chính quyền bảo hộ Trung - Bắc kỳ: Người đứng đầu chính quyền bảo hộ là tổng trú sứ (Résident général) trực thuộc Bộ Ngoại giao, do Tổng thống Cộng hòa Pháp bổ nhiệm bằng sắc lệnh, báo cáo tại Hội đồng Bộ trưởng. Chính quyền bảo hộ có cơ cấu tổ chức, ngân sách và tài chính riêng. Những viên chức và nhân viên do mẫu quốc (Pháp) cử tới làm việc trong chính quyền bảo hộ (Trung - Bắc kỳ) được gọi là biệt phái.
Các văn bản của vua triều đình Huế phải có chữ ký chuẩn y của tổng trú sứ. Tổng trú sứ được quyền bổ nhiệm các chức danh dân sự, riêng chức danh khâm sứ, thống sứ (đều dịch từ tiếng Pháp: Résident supérieur) và công sứ (Résident) sẽ do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao bổ nhiệm. Tổng trú sứ đặt trụ sở chính ở Huế, có Khâm sứ Trung kỳ (ở Huế) và Thống sứ Bắc kỳ (ở Hà Nội) phụ tá dưới quyền. Quyền hạn của khâm sứ và thống sứ do tổng trú sứ quy định bằng nghị định, và phải được Bộ trưởng Bộ Ngoại giao phê chuẩn. Khi tổng trú sứ vắng mặt, khâm sứ sẽ là người đại diện cho tổng trú sứ ở triều đình Huế…
Tháng 2.1886, Paul Bert đặt chân đến Sài Gòn, liên lạc với người bạn quen bên Pháp từ năm 1863 (trong chuyến đi chuộc đất của Sứ bộ Phan Thanh Giản) là học giả Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paul Bert nhờ Trương Vĩnh Ký lập một danh sách những thông ngôn người bản xứ có khả năng để sau này bổ dụng, và cũng mời gia đình Trương Vĩnh Ký đi cùng mình ra Huế.
Hai tháng sau, Paul Bert cùng Trương Vĩnh Ký có mặt tại Huế, đây là chuyến Bắc hành thứ hai của Trương Vĩnh Ký sau chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi (1876) thời Thống soái Nam kỳ Duperré. Paul Bert bố trí công việc cho ông Ký tại Huế, trong đó có mục đích dạy tiếng Pháp cho vua Đồng Khánh và em trai nhà vua, chiêu dụ giới sĩ phu trong phong trào Cần vương lúc bấy giờ… Ngày 12.4.1886, Paul Bert ra Bắc kỳ, chính thức nhậm chức Tổng trú sứ Trung - Bắc kỳ. (còn tiếp)
Bình luận (0)