Nhà hát Lớn nằm ở trung tâm quảng trường Francis Garnier, đoạn giao giữa đường Catinat và đại lộ Bonnard (đường Lê Lợi ngày nay)
Nhà hát Lớn được bắt đầu xây vào năm 1896 qua kiến trúc đoạt giải của ông Ferret
(có 3 kiến trúc sư dự thi: Ferret, Genêt và Berger)
Nhà hát Lớn được khánh thành bởi thị trưởng thành phố Sài Gòn khi đó, ông Paul Blanchy, với sự hiện diện của hoàng tử Đan Mạch Waldemar ngày 1.1.1900 (thật ra đến năm 1901 công trình này mới hoàn thành với chi phí lên đến 2.500.275 francs).
Nhà hát Lớn được xây dung theo lối kiến trúc "flamboyant" của thời Đệ tam Cộng hòa Pháp. Cửa mặt tiền chịu ảnh hưởng nghệ thuật khá rõ nét của Petit Palais cất cùng năm tại Paris.
Tuy có dự định nơi đây sẽ trở thành một khu trung tâm giải trí dành riêng cho giới thượng lưu, nhưng Nhà hát Lớn càng ngày càng mất khách, vì các tay ăn chơi bị các hộp đêm, các quán ăn có nhạc và khiêu vũ giúp vui thu hút hầu hết...
Năm 1943 phần điêu khắc trang trí ở mặt tiền Nhà hát Lớn bị xóa bỏ (tượng nữ thần nghệ thuật, các dây hoa, hai cây đèn...) nhằm trẻ trung hóa phong cách kiến trúc
Năm 1955, công trình được tu bổ cải tạo nhưng lại được sử dụng với chức năng tòa Trụ sở Quốc hội (sau gọi là Hạ nghị viện) của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1998, nhân dịp 300 năm khai sinh Thành phố Sài Gòn, chính quyền thành phố đã cho tu bổ lớn với phương châm bảo tồn phong cách kiến trúc ban đầu, với một số trang trí, điêu khắc nổi ở mặt tiền nhà hát như tượng nữ thần nghệ thuật, các dây hoa... được phục chế.
Bên hông Nhà hát Lớn là khách sạn Continental (số nhà 132 - 134 Cantinat) được ông Pierre Cazeau, một nhà sản xuất vật liệu xây dựng và đồ gia dụng, khởi công xây dựng năm 1878 và hoàn thành sau 2 năm.
Bức ảnh chụp khách sạn Continental thời kì đầu, lúc này chỉ mới là một khối nhà ba tầng quay ra đường Catinat. Trên tường tầng 3 ta có thể đọc được biển hiệu "Grand Hotel Continental". Cây trên đoạn đường còn thấp cho thấy rõ hai tháp chuông của Nhà thờ Đức Bà phía xa. Ở phía đối diện, ở góc đường Bonnard (Lê Lợi) và Catinat (Đồng Khởi) là Café de la Musique với hàng cây con mới trồng.
Dòng lưu bút của người sử dụng cho biết bức ảnh này được chụp trước năm 1906. Khách sạn đã có thêm khối nhà bốn tầng quay ra phía Quảng trường Nhà hát Lớn. Hàng cây phía trước Café de la Musique đã cao hơn một chút.
Tầng dưới của khách sạn Continental, theo Niên giám Đông Dương từ năm 1907 đến 1910 là nhà sách của ông F.H Schneider. Ông là người sáng lập tờ “Lục Tỉnh Tân Văn” năm 1907 mà chủ bút là ông Trần Chánh Chiếu. Ông Schneider cũng đứng tên là chủ khách sạn và cơ sở Minh Tân ở số 4-6 đường Krantz (Hàm Nghi ngày nay). Năm 1911, ông dọn khỏi khách sạn Continental đến số 22 đường Kerlan (nay là đường Lê Văn Hưu), năm 1912 đến 15 đường Chasseloup-Laubat (đường Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) và cuối cùng năm 1914, 1915 ở số 2 đường Kerlan và số 7 Boulevard Norodom (trụ sở báo “Lục Tỉnh Tân Văn”, ra thứ 5 mỗi tuần, nay là đường Lê Duẩn).
Biển hiệu khách sạn được đổi thành "Continental Palace Hotel". Chi tiết này liên quan đến việc chuyển nhượng khách sạn cho công tước Ferdinand de Monpensier vào năm 1911. Tầng trệt khách sạn không còn nhà sách của ông F.H Schneider nữa.
Năm 1911, công tước Ferdinand de Monpensier (cháu nội vua Louis-Philippe I của Pháp) đã mua lại khách sạn Continental sau khi ông trú ngụ tại đây trong chuyến đi từ Sài Gòn đến Angkor (Campuchia). Chiếc xe mà công tước Monpensier sử dung trong chuyến đi này cũng là một trong những chiếc xe hơi đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam. Xe hơi của công tước khởi hành từ khách sạn Continental năm 1908 lên đường đi Angkor, một chuyến đi đầy cam go và gian nan vi đường xá lúc đó chưa được làm cho xe hơi chạy.
Cũng trong năm 1911, trên đường du ngoạn ngang qua Phan Thiết, công tước Monpensier đã mua và xây một biệt thự trên ngọn đồi nhìn ra biển và thành phố Phan Thiết với số tiền lên đến 82.000 đồng bạc Đông Dương thời đó. Tên gọi "Lầu Ông Hoàng" xuất phát từ cách gọi dân dã của người dân về sự sang trọng của vị công tước người Pháp cư ngụ ở đây. Lầu Ông Hoàng có máy diesel sản xuất điện riêng nên ban đêm rất sáng vì thời đó chưa có điện nhiều ở vùng xa. Tháng 7 năm 1917, công tước Montpensier bán lại biệt thự cho một chủ khách sạn người Pháp tên là Prasetts. Sau này, vua Bảo Đại mới mua lại nó.
Bức ảnh cổng chào đón thống chế Joffre sang thăm Sài Gòn tháng 12 năm 1921. Biểu ngữ trên lầu cao khách sạn Continental là lời thống chế Joffre gởi chiến sĩ trong trận đánh mở màn thế chiến thứ nhất: "Une troupe qui ne pourra plus avancer devra, coûte que coûte, garder le terrain conquis, et se faire tuer sur place, plutôt que de reculer" (Đoàn quân khi không còn có thể tiến lên nữa, thì bất cứ giá nào phải giữ trận địa chiếm được, thà chết ngay ở chổ đó chứ không lùi!).
Năm 1930, công tước Monpensier bán lại khách sạn cho ông Mathieu Francini, một người Pháp gốc Corse (một hòn đảo của Pháp ở Địa Trung Hải). Sau khi đến Sài Gòn, ông lập gia đình với một phụ nữ Việt Nam, con một điền chủ giàu ở Nam Kỳ. Vì ông là người Corse và có nhiều bạn bè đồng hương ở Sài Gòn nên lời đồn đại rằng ông có liên hệ với các thế lực ngầm ở Marseille, Corse và Sài Gòn. Tuy nhiên điều này không được kiểm chứng. Ông Francini quản lý khách sạn Continental đến năm 1964 rồi trao lại cho người con Phillip Francini tiếp tục cho đến 1975.
Trong các thập niên 1930 -1950, nhà hàng và quán café ở khách sạn Continental là nơi gặp gỡ
của cộng đồng người gốc Corse ở Sài Gòn
Khách sạn Continental đã tiếp đón nhiều nhân vật nổi tiếng như nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagore (Giải Nobel văn chương 1913), văn hào Pháp André Malraux, văn hào Anh Graham Greene, người đã viết tiểu thuyết "Một người Mỹ trầm lặng" tại căn phòng số 214 của khách sạn. Trong thời Chiến tranh Việt Nam, khách sạn cũng là nơi tụ họp của các ký giả, nhà báo, chánh khách, và thương gia ngoại quốc hoạt động tại Sài Gòn.
Trong những thập niên 1960 -1970, chính quyền Sài Gòn bắt các cơ sở thương mại phải dùng bảng hiệu tiếng Việt, vì thế khách sạn Continental còn có tên là "Đại Lục Lữ Quán".
Khách sạn Continental Saigon ngày nay
Ở phía đối diện với khách sạn Continental vào những năm đầu thế kỷ 20 là quán Café de la Musique nằm ở số nhà 169 - 171 Catinat (góc Catinat và đại lộ Bonnard - Lê Lợi ngày nay) của ông bà Pancrazi. Họ cũng là chủ khách sạn Grand Hôtel des Nations trên cùng block phố, địa chỉ 104 - 106 Charner (Nguyễn Huệ), là nơi mà cô Yvette Trà (cô Ba Trà), người đẹp Nam kỳ Lục tỉnh đã đến trú ngụ một thời gian. Kế bên (góc phải hình) này có lẽ là một tiệm may vì thấy mấy chữ COMPL(E) trên biển hiệu ("Comple" cũng tượng tự như "Suit" trong tiếng Anh, từ chỉ các bộ Âu phục thời đó).
Café de la Musique (trái) nhìn từ hướng quảng trường Nhà hát Lớn - đại lộ Bonnard (Lê Lợi ngày nay)
Trong bức ảnh này, ta thấy xuất hiện những cột Morris dành cho dán quảng cáo bên cạnh những chiếc ghế công viên đặt trên quảng trường Nhà hát Lớn
Trong một bức ảnh đen này, ta thấy cả ba cửa hàng: nhà sách Librairie-Imprimeur F.H Schneider (bên phải, thuộc khách sạn Continental), Café de la Musique (bên trái), và La Civette (giữa). La Civette do ông Ch. Montagne làm giám đốc, bán các mặt hàng cho người hút thuốc. Theo Antoine Brébion, người lập ra tiệm La Civette là ông A.William Fabre, một thương gia người Bordeaux đến Sài Gòn năm 1884. Ở Sài Gòn, lúc đầu ông lập ra kho bán thuốc lá, sau mở khách sạn Hôtel de l’ Europe ở Quai de Commerce (bến Bạch Đằng). Fabre cũng là người thành lập tờ báo L’Independant, đối lập với chính quyền thuộc địa. Fabre mất ở Sài Gòn năm 1896.
Quãng những năm 40, tiệm cà phê nhạc được sang lại để mở tiệm thuốc Tây Pharmacie Principale Solirène.
Năm 1950, Girval ra đời ở vị trí này. Chủ là Alain Poitier, một thợ bánh Pháp đã sống nhiều năm ở Sài Gòn. Nhà báo và tình báo Phạm Xuân Ẩn ở Sài Gòn từng chọn Givral làm chỗ ngồi thường xuyên, cũng như vô số nhà báo trong và ngoài nước những năm chiến tranh Việt Nam: họ chọn địa điểm này để nhâm nhi, quan sát và thu thập tin tức báo chí mỗi ngày, muốn gặp nhau thường khi khỏi phải hẹn trước…
Danh thiếp của nhà hàng - café Givral
Lối vào từ đường Lê Lợi, quãng 1990
Năm 2001, Givral đóng cửa một thời gian ngắn để quay phim "Một người Mỹ trầm lặng", đạo diễn Philip Noyce dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Graham Greene. Ông Greene đã viết cuốn truyện tại phòng 214 khách sạn Continental. Khi chon Givral, đoàn làm phim đã không ngại tốn kém, bắt buộc phải dựng lại đúng màu sơn, đúng hình dáng của nó ở thập niên 60-70. Ngay cả khách sạn Continental phía đối diện, một địa điểm khác xuất hiện trong bộ phim, cũng phải trở lại kiến trúc thời ấy. Trong ảnh là Michael Caine (phải) và Brendan Fraser trong một cảnh quay.
Bên trong Girval năm 2009
Ngày 10.4.2010, tòa nhà Eend bị dỡ bỏ để xây Vincom A (nay là Union Square)
Ngày 10.10.2012, Givral hồi sinh ngay tại vị trí cũ thuộc Vincom A
Mùa hè 2013, đóng cửa trả mặt bằng. Nay là boutique của Bottega Veneta.
Sau Givral có thêm tiệm Brodard nằm ở góc Catinat – Carabelli (nay là Đồng Khởi - Nguyễn Thiệp). Brodard là quán dành cho giới trẻ sành điệu Sài Gòn. Góc này sau trở thành cà phê Gloria Jean's (thương hiệu của Úc), rồi cửa hàng trưng bày của Sony...
Cũng nằm trên đường Catinat và thuộc tứ giác Eden như Givral, nhưng ở góc dưới này, Catinat - d’Espagne (nay là Lê Thánh Tôn), tiệm cà phê La Pagode không dành cho khách Tây, không hợp với giới trẻ sành điệu, và dân nhà giàu không tới đó. Nó dành cho những cư dân có tâm hồn sáng tạo và cách tân bậc nhất Sài Gòn lúc bấy giờ: họa sĩ, nhạc sĩ, nhà văn và nhà thơ.
Xéo bên kia ngã tư, từ cửa La Pagode nhìn qua là công viên Chi Lăng có cây cao xanh ngắt
Công viên Chi Lăng trên đường Catinat (nay là vườn tiểu cảnh phía trước tòa nhà Vincom B)
Từ công viên Chi Lăng nhìn xéo qua cà phê La Pagode thuộc thương xá Eden. Tòa nhà bên trái nay là Parkson Lê Thánh Tôn.
Đường Catinat nhìn từ tháp chuông Nhà thờ Đức Bà. Ngôi nhà bên trái bức ảnh có hàng hiên nhô về tường rào phía đường Taberd (Nguyễn Du ngày nay).
Ngôi nhà bên trái ở ảnh trước, địa chỉ 164 Catinat, là Sở thu thuế. Nhiều tư liệu cho thấy địa chỉ này được ghi là Recette locale (Thu thuế địa phương) trong các năm 1905-1906, và Receveur spécial (Thu ngân đặc biệt) từ năm 1907-1911, từ năm 1912 trở đi là “Trésor public” (Ngân khố, Kho bạc).
Số 225 Catinat ngay góc ngã tư với Taberd (Nguyễn Du ngày nay) là nơi ở của quản lý kho bạc (tresorier payeur). Như vậy hai tòa nhà ở cuối đường Catinat đều có thể gọi là Tresor Public vì một nơi là nhận tiền và bên kia quản lý ngân khố.
Năm 1917, khi kho bạc mới được xây ở đại lộ Charner (Nguyễn Huệ), chính quyền thực dân Pháp bố trí cho Sở Mật thám Nam Kỳ và Sở Cảnh sát Trung tâm sử dụng công trình này. Do nằm trên đường Catinat nên người dân thường gọi hai cơ quan này là “Bót Catinat”.
Bót Catinat có căn hầm sâu dưới mặt đất, các xà lim lớn, nhỏ nơi mật thám Pháp giam giữ nhiều tù nhân chính trị. Bót Catinat khét tiếng ác ôn, người bị tình nghi, khi bị bắt đều được đưa vào đó để tra tấn, khai thác làm biên bản rồi giải qua Khám Lớn. Do nằm kế bên Nhà thờ Ðức Bà nên người dân Sài Gòn gọi châm biếm: "Kế bên thiên đàng có địa ngục".
Sau năm 1954, bót Catinat khét tiếng thời thực dân được chính quyền Sài Gòn sử dụng làm trụ sở Bộ Nội vụ. Ảnh chụp năm 1967, lúc này quảng trường trước Nhà thờ Đức Bà mang tên Quảng trường Kennedy. Ta có thể thấy dòng chữ Bộ Nội Vụ ở cổng tòa nhà bên trái. Tòa nhà bên phải không thay đổi so với trước, nó được dùng làm trụ sở Bộ Xã Hội.
Vị trí bót Catinat ngày nay là tòa nhà Saigon Metrepolitant
Ngay sau khi đánh thành Gia Định và chiếm được vùng đất Sài Gòn, Pháp đã thiết lập hệ thống thông tin liên lạc. Ngày 11.11.1860, “Sở dây thép” Sài Gòn (tức Bưu điện Sài Gòn) được thành lập. Ông Phạm Văn Trung là người Việt Nam đầu tiên làm giám đốc Bưu điện An Nam tại Sài Gòn. Ngày 13.1.1863, Sở dây thép Sài Gòn được chính thức khánh thành và phát hành “con cò” (người Sài Gòn xưa hay gọi con tem là con cò) đẩu tiên. Năm 1864, dân chúng Sài Gòn bắt đầu gởi thơ qua nhà “dây thép” (hệ thống bưu điện).
Năm 1886, Bưu điện Sài Gòn được xây cất lại với qui mô hiện đại theo đề án của kiến trúc sư người Pháp là Villedieu.. Đến năm 1891, trụ sở mới của Bưu điện Sài Gòn được chính thức khánh thành. Trước đó, đường dây thép Sài Gòn - Qui Nhơn - Đà Nẵng - Huế - Vinh - Hà Nội dài 2000 km đã được chính thức hoàn thành (vào ngày 22.3.1888). Năm 1889 mở thêm đường liên lạc điện báo Sài Gòn - Bangkok để phục vụ cho giới kinh doanh thương mại. Từ ngày 1.7.1894 Sài Gòn bắt đầu sử dụng hệ thống điện thoại.
Toà nhà Bưu điện Sài Gòn là một trong những công trình kiến trúc nổi tiếng của thành phố, có nhiều đặc trưng của phong cách kiến trúc châu Âu và châu Á hòa quyện vào nhau.
Bưu điện Sài Gòn ngày nay
Tháng 8.1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đã tổ chức một kỳ thi vẽ đồ án thiết kế nhà thờ mới. Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến trúc sư J. Bourard với phong cách kiến trúc Roman cải biên pha trộn nét phong cách kiến trúc Gothic đã được chọn. Sau đó, đô đốc Duperré cho đấu thầu việc xây dựng nhà thờ và cũng chính kiến trúc sư này là người trúng thầu và trực tiếp giám sát công trình. Mọi vật liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang. Đặc biệt, mặt ngoài của công trình xây bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp), để trần, không tô trát, không bám bụi rêu mà đến nay vẫn còn màu sắc hồng tươi.
Ngày 7.10.1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ nhân vật cấp cao thời ấy. Nhà thờ được xây dựng trong 3 năm. Lễ Phục sinh, ngày 11.4.1880, nghi thức cung hiến và khánh thành do cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers.
Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày khánh thành và tên vị công trình sư. Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền 2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ. Ban đầu, nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Nhà Nước vì nó do nhà nước Pháp bỏ tiền xây dựng và quản lý.
Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi tháp cao 57,6 m và có 6 chuông đồng lớn nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg. Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá là 60,50 m.
Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Bá Đa Lộc hoặc Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long). Tượng đài này bao gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ hình trụ tròn và bên trên là bức tượng tạc hình Giám mục Adran với phẩm phục Giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh.
Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới bình dân thời đó thường gọi là tượng "hai hình" để phân biệt với tượng "một hình", là bức tượng của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công trường Mê Linh (nay là cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ sông Sài Gòn).
Năm 1945, tượng này bị chính phủ độc lập Trần Trọng Kim phá bỏ, nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ thì vẫn còn tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức tượng nào đặt lên trên.
Từ trong nhà thờ Đức Bà nhìn ra quảng trường (ảnh chụp tháng 10.1045)
Năm 1958, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm Giám mục giáo phận Phú Cường, nay đã qua đời), cai quản Giáo xứ Sài Gòn bấy giờ, đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch trắng Carrara của Ý. Tượng dược tạc tại Pietrasanta cách Roma khoảng 500km. Khi tượng hoàn tất đã được đưa xuống tàu Oyanox vào ngày 8.1.1959 và từ hải cảng Gênes tàu chở tượng qua Việt Nam và tới Sài Gòn ngày 15.2.1959, sau đó công ty Société d'Entreprises đã dựng tượng Đức Mẹ lên bệ đá trước cửa nhà thờ Sài Gòn, bệ đá này vẫn còn để trống kể từ năm 1945. Tự tay linh mục viết câu kinh cầu nguyện "Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được hòa bình" rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt hôm ấy. Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua Sài Gòn để chủ toạ lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu, đã làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17.2.1959. Do bức tượng này mà từ đó Nhà thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.
Năm 1960, Tòa Thánh thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Nhà thờ trở thành nhà thờ chính tòa của vị tổng giám mục Sài Gòn cho đến ngày nay.
Nhà thờ Đức Bà ngày nay
|
Bình luận (0)