Vậy đâu là những nguy cơ đột quỵ? Làm thế nào để phòng ngừa đột quỵ? Trao đổi với PV Thanh Niên, tiến sĩ - bác sĩ (TS.BS) Hà Tấn Đức, Trưởng khoa Đột quỵ, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, đã có những giải đáp về căn bệnh nguy hiểm này.
Dấu hiệu đột quỵ
Đột quỵ não thường gặp 2 thể: Nhồi máu não và xuất huyết não. Triệu chứng của đột quỵ xảy ra đột ngột, bao gồm: méo miệng, yếu liệt ½ người, nói ngọng nói đớ hoặc không nói được.
|
Nhồi máu não
Đây là bệnh lý chiếm gần 80% các trường hợp đột quỵ. Nguyên nhân là mạch máu não bị tắc, thường do cục máu đông gây bít tắc lòng mạch (cục máu đông có thể từ tim di chuyển lên não gây tắc, hoặc hình thành tại chỗ). Lòng mạch ngay tại chỗ tắc có thể bình thường hoặc bị hẹp (mức độ hẹp thay đổi, từ hẹp nhẹ đến rất nặng).
Một dạng bệnh lý não có triệu chứng giống như đột quỵ được gọi là cơn thiếu máu não thoáng qua (dạng bệnh lý này chưa được xếp là đột quỵ).
Nguyên nhân do mạch máu não co thắt (có thể kèm theo mạch máu não bị hẹp ngay vị trí co thắt). Cơn thiếu máu não thoáng qua sẽ được hồi phục hoàn toàn. Tuy nhiên, đây là một trong những dấu hiệu cho thấy người bệnh có nguy cơ rất cao xảy ra đột quỵ thực sự trong tương lai gần.
Xuất huyết não
Chiếm gần 20% các trường hợp đột quỵ. Các nguyên nhân thường gặp bao gồm: vỡ mạch máu, vỡ túi phình mạch máu (mạch máu có một chỗ bị yếu, phồng lên và vỡ).
Trong thể xuất huyết não thì vỡ túi phình mạch máu não là loại cực kỳ nguy hiểm, vì tỷ lệ tử vong trước khi đến được bệnh viện rất cao. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi.
Tỷ lệ tử vong trước khi đến được bệnh viện rất cao (15 - 50%). Để phòng ngừa, cần tầm soát túi phình mạch máu não nếu có các yếu tố nguy cơ sau: có bệnh sử về túi phình mạch máu não, có tiền căn gia đình bị xuất huyết dưới nhện (do vỡ túi phình mạch não), có các bệnh lý di truyền như hội chứng Marfan, thận đa nang, hội chứng Ehlers-Danlos típ 4.
|
Tuy nhiên, không phải cứ có túi phình là nó sẽ bị vỡ. Đối với các túi phình nhỏ, 50 - 80% không vỡ trong suốt cuộc đời. Do đó, không phải ai cũng cần chụp hình não để tầm soát túi phình. Vì lỡ chụp ra có túi phình nhỏ, rồi làm gì nữa, phần lớn sẽ không can thiệp. Nhưng lúc đó, người bệnh lại ăn không ngon ngủ không yên vì có túi phình.
Nguy cơ đột quỵ
Đột quỵ là bệnh lý nguy hiểm dẫn đến tử vong hàng đầu trên thế giới. Đây là bệnh lý do sự tích tụ theo thời gian của các yếu tố nguy cơ. Cách tốt nhất để phòng ngừa đột quỵ là giảm thiểu đến mức thấp nhất các yếu tố nguy cơ; đặc biệt là năng tập thể dục, thay đổi lối sống, ăn uống hợp lý.
Các yếu tố nguy cơ của đột quỵ bao gồm: cân nặng lúc sinh thấp, tuổi cao, tiền căn gia đình có đột quỵ, tăng huyết áp, từng có cơn thiếu máu não thoáng qua, rung nhĩ (một dạng rối loạn nhịp tim), rối loạn mỡ máu, đái tháo đường, ngưng thở lúc ngủ, hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, béo phì, ít vận động, sử dụng thuốc ngừa thai uống, căng thẳng tâm lý. Cách phòng tránh tốt nhất là phòng tránh từ khi chưa xuất hiện triệu chứng của bệnh, bằng cách hạn chế đến mức thấp nhất các yếu tố nguy cơ của bệnh.
Làm gì khi có nguy cơ đột quỵ?
Trước tiên, nếu gia đình có người thân từng đột quỵ, thân nhân cần phải khám sức khỏe định kỳ, tầm soát các yếu tố nguy cơ của đột quỵ đã kể trên để có thể điều trị kịp thời.
Nếu bị tăng huyết áp, cần khám bệnh và sử dụng thuốc đều đặn theo toa của bác sĩ. Người bệnh cần tư vấn của bác sĩ điều trị để biết mức huyết áp cũng như cách tự theo dõi tại nhà. Tránh ăn mặn, năng vận động cũng có thể làm giảm một phần huyết áp.
Nếu bị cơn thiếu máu não thoáng qua, thân nhân của người bệnh cần biết các triệu chứng của bệnh (giống như bị đột quỵ) để có thể phát hiện bệnh kịp thời. Khi có triệu chứng gợi ý đột quỵ thì phải nhanh chóng đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế có đơn vị can thiệp đột quỵ để được điều trị càng sớm càng tốt.
Nếu bị rung nhĩ (một dạng rối loạn nhịp tim), cần được bác sĩ chuyên khoa thăm khám và cho thuốc phòng tránh có cục máu đông trong tim. Nếu cục máu đông hình thành trong tim thì nguy cơ bị tắc mạch máu rất cao (trong đó có mạch máu não).
Nếu bị rối loạn mỡ máu, cần năng vận động, tránh ăn mỡ dầu và các thức ăn chiên xào, ăn nhiều rau. Đối với chất đạm, có thể ăn cá, ít ăn thịt. Nếu các thay đổi trên không cải thiện tình trạng rối loạn mỡ máu, thì bác sĩ có thể cân nhắc dùng thuốc.
|
Nếu bị đái tháo đường, đây là bệnh lý cần điều trị tổng hợp và lâu dài. Biến chứng thường gặp nhất của đái tháo đường là biến chứng mạch máu, thường gặp là nhồi máu cơ tim, nhồi máu não, xuất huyết não.
Các biện pháp điều trị bao gồm, thay đổi lối sống theo hướng tăng cường vận động, sống lành mạnh, ăn uống hợp lý. Kết hợp với dùng thuốc. Mục tiêu là phải kiểm soát đường huyết, kiểm soát huyết áp, kiểm soát lượng mỡ trong máu, giảm thiểu các yếu tố nguy cơ bệnh lý mạch máu.
Nếu bị bệnh lý ngưng thở lúc ngủ. Đây là tình trạng thường gặp ở người béo phì (người không béo phì cũng có thể gặp). Ban đêm khi ngủ, bệnh nhân thường ngáy rất to, xen kẽ những cơn ngừng thở. Bác sĩ chuyên khoa hô hấp sẽ thăm khám và điều trị những trường hợp ngưng thở lúc ngủ. Về cân nặng lúc sinh, không có cách nào khác là phải đảm bảo khám thai đúng lịch, dinh dưỡng cho bà mẹ đầy đủ, theo dõi thai kỳ và tiêm ngừa đầy đủ trong quá trình mang thai.
Ngoài ra, đột quỵ cũng có thể xuất phát từ các nguy cơ khác như hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, béo phì, ít vận động, sử dụng thuốc ngừa thai uống, căng thẳng tâm lý. Đây là các yếu tố có thể giảm thiểu hoặc loại trừ hẳn. Việc loại trừ các yếu tố nguy cơ này cần có quyết tâm và thực hiện lâu dài.
Bình luận (0)