Tết Việt xưa qua ghi chép của người phương Tây

29/01/2025 06:00 GMT+7

Việt Nam là điểm dừng chân yêu thích của nhiều du khách phương Tây; Tết Việt cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 đã được họ trải nghiệm và ghi chép lại trong các trang du ký. Những quan sát mắt thấy tai nghe của người phương Tây về tết cổ truyền của người Việt xưa giờ đây trở thành những tư liệu dân tộc học quý giá.

Tháng giêng là tháng ăn chơi…

Năm 1886, Camille Paris - người phát hiện thánh địa Mỹ Sơn - đến Vân Hội (thị trấn Diêu Trì, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) vào những ngày giáp tết. Trong tác phẩm Voyage d'exploration de Hué en Cochinchine par la Route mandarine (Du ký Trung kỳ theo đường cái quan), ông cho biết vào dịp này, "người ta quét vôi nhà cửa, sơn lại bàn thờ tổ tiên, thay tất cả bùa chú, bùa hộ mệnh, câu đối, những bức phúng dụ giấy vàng treo hoặc dán trong nhà và trước cửa từ tết năm trước". Bác sĩ Baurac khi quan sát tết Sài Gòn năm 1894 thì cho biết, trong tác phẩm La Cochinchine et ses habitants Provinces de l'Ouest (Nam kỳ và cư dân: Các tỉnh miền Tây), "vào những thời điểm năm mới (tết), ngôi mộ được dọn sạch, người ta đốt pháo và giấy bùa ở đó".

Tết Việt xưa qua ghi chép của người phương Tây- Ảnh 1.

Ông đồ bán câu đối tết, khoảng năm 1920 - 1929

Ảnh: Bảo tàng Quai Branly

Theo cuốn Tour d'Asie: Cochinchine - Annam - Tonkin (Vòng quanh châu Á: Nam kỳ - Trung kỳ - Bắc kỳ) của nhà du hành Marcel Monnier, tết cũng là dịp ghé thăm các cửa hàng ở Chợ Lớn (Nam kỳ), vốn chưa hề bị Âu hóa và ở đó "san sát những nhà hàng ngoài trời, những sạp vải lụa và bông sặc sỡ, vô số đèn lồng màu, câu đối dài cả mét nền đỏ ghi những chữ vàng mang nghĩa Phúc và Thọ. Và từ các làng, người dân lũ lượt đi mua sắm. Nào là xe bò, xe tay, người đi bộ lưng còng xuống vì thúng đồ nặng, nào là xe malabar [xe kiếng] bốn chỗ cho cả gia đình ngồi dưới sức kéo của một con ngựa còm. Mua đồ xong, người ta tỏa đi mọi ngả đường, các lối mòn chật hẹp giữa những ruộng lúa, hát ca, rủng rẻng suốt một quãng chiều".

Theo Camille Paris, vào dịp cận tết, các quán ăn rất sôi động: người ta uống trà, uống rượu, ăn đậu, cơm, những hạt cơm trắng như tuyết tô điểm bằng những miếng thịt heo nấu đông hoặc nước mắm. "Thật là vui và thú vị, lũ trẻ con mặc quần áo đẹp, đội nón rộng vành che nắng. Từ trẻ con cho tới người già đều ăn mặc đẹp khác với ngày thường". Một du khách người Pháp tên là Pierre Barrelon đến Sài Gòn đầu thập niên 1890 nhận định: "Trang phục của trẻ nhỏ là thứ đặc biệt được quan tâm vì nó luôn là một trong những thứ phong phú nhứt. Đứa bé nào cũng được trang điểm, chải chuốt ngộ nghĩnh nhứt có thể".

Monnier thì viết rằng "nhà cửa được trang hoàng; nam nữ thay những bộ quần áo tối màu bằng những bộ đồ tươi tắn, chiếc thắt lưng màu anh đào hay dải khăn xanh", "từ lúc mặt trời lặn đến khi bình minh, những chùm pháo hoa, những tiếng pháo nổ vừa tưởng niệm người đã khuất vừa đón mừng một năm mới đến".

Khi quan sát tết ở Huế vào năm 1886, bác sĩ Hocquard viết trong Une campagne au Tonkin (Một chiến dịch ở Bắc kỳ): "Không có buôn bán, không việc đồng áng, không lao dịch khổ sai; người lớn và trẻ nhỏ sẽ mặc quần áo đẹp" và "các cơ quan trong hoàng cung đã đóng cửa; bắt đầu từ hai mươi lăm tháng chạp, triều đình ngưng công việc, không ký tá đóng dấu bất cứ giấy tờ nào tới tận ngày mười một tháng giêng năm sau".

Theo Michel Đức Chaigneau, trong tác phẩm Souvenirs de Hué (Hồi ức Huế) xuất bản ở Paris năm 1867, lễ hội đón năm mới ở Huế kéo dài khoảng 10 ngày, mọi công việc đều tạm dừng trước 6 - 8 ngày cuối năm âm lịch để mọi người được nghỉ ngơi và vui chơi giải trí, lễ thượng nêu/đóng ấn và hạ nêu/khai ấn là các hoạt động định kỳ không thể thiếu.

Pierre Barrelon thì có dịp quan sát những ngày đầu năm mới của người bản xứ và theo ông, trong suốt 3 ngày tết, "người bản xứ tham gia những cuộc chè chén tiệc tùng điên rồ nhứt. Hoạt động thương mại "đình trệ", không có cách nào kiếm được một ống gạo".

Bác sĩ Baurac cho biết trong 3 ngày tết, "tất cả công việc và mọi hoạt động buôn bán đều bị ngưng lại; người ta không họp chợ. Ở Sài Gòn cũng như các trạm nội địa, người Âu châu phải dự phòng và trữ đồ trước tết vì trong ba ngày nghỉ lễ này, khắp nơi đều đóng cửa".

Kiếm tiền ăn tết

Theo Camille Paris, những ngày trước tết thật huyên náo, "mọi người không quản ngày đêm bởi họ không có thời gian nào để làm nữa. Từ người nghèo muốn đổi đồ đạc trong nhà, thương nhân bán tống bán tháo hàng hóa, người bán pháo rong, bán nhang thơm, bán hình Phật, hình nhân thế mạng bằng tre bọc ngoài bằng giấy màu sặc sỡ… Còn gì nữa nhỉ? Người ta xẻ thịt heo, vun quả cau thành đống, nhà giàu thì mua vải làm khăn, mũ. Cần phải có tiền và có cái gì mới, nếu không phải bán hết đồ cũ đi".

Tết Việt xưa qua ghi chép của người phương Tây- Ảnh 2.

Hoa đào trên phố vào dịp tết, Hà Nội ngày 2.2.1929

Ảnh: Bảo tàng Quai Branly

Nhu cầu mua sắm của người Việt ở Sài Gòn theo quan sát của Monnier là "Tết Nguyên đán phải được tổ chức long trọng, người người lau dọn nhà cửa, trang hoàng bàn thờ tổ tiên bằng hoa lá và giấy màu, mua thật nhiều pháo sáng và pháo nổ. Và toàn bộ tiền tiết kiệm của gia đình đổ vào đó". Bác sĩ Hocquard thì viết rằng "những người khốn khổ sẽ đem bán nốt đồ đạc và vay mượn cho đủ tiền ăn tết".

Pierre Barrelon viết: "Mọi người đều ráng kiếm một số tiền lớn bằng cách bán đi hoặc cầm cố những gì vướng víu, bởi lẽ bằng mọi giá phải có tiền đặng ăn chơi những ngày hội hè này". Nữ du khách người Anh tên Gabrielle M.Vassal, trong tác phẩm Mes trois ans d'Annam (Ba năm ở An Nam) xuất bản năm 1912, cho biết trải nghiệm tết ở Nha Trang: "Người thì đi đòi nợ, người thì kiếm thứ gì đó mang đi bán lấy tiền".

Nghi thức đầu năm

Theo ghi chép của bác sĩ Baurac, vào đầu năm, nếu gánh hát không được nơi nào mời diễn thì họ vẫn phải diễn một vở tuồng để khai trương năm mới. Khi đó, "người ta sẽ hỏi các thần để thần chỉ định một vở tuồng hợp với họ, người ta làm như sau: một tiết mục được chọn ngẫu nhiên từ các vở tuồng của đoàn do một đứa trẻ không có khả năng suy xét; tiếp đó người ta hỏi ý các thần bằng cách tung hai đồng tiền lên cao (xin keo - NV). Nếu một đồng sấp một đồng ngửa thì kết quả là thuận. Nếu hai đồng tiền cùng sấp hoặc ngửa sau khi rớt xuống, người ta sẽ bắt đầu lại. Đó được gọi là bói tuồng đầu năm: tìm vở tuồng nào sẽ mở màn năm mới bằng cách bói".

Theo học giả Trương Vĩnh Ký, ở Sài Gòn hằng năm sau ngày tết, Tả quân Lê Văn Duyệt cho tổ chức lễ ra binh - có ý nghĩa chánh trị và tôn giáo hơn là mê tín. Lễ này có mục đích phô trương thanh thế trước mọi âm mưu nổi loạn và tiêu diệt mọi mầm mống ác hại. Lễ ra binh diễn ra như sau: "Ngay trước ngày 16 tháng giêng, sau khi trai giới, quan tổng trấn mặc lễ phục tới nhà tông miếu cáo yết, rồi sau ba tiếng pháo, ông lên kiệu có lính dẫn đường và theo sau. Tổng trấn được đoàn hộ tống đưa ra khỏi thành qua cổng Gia Định Môn hoặc Phan Yên Môn; hướng về phía Chợ Vải và ngược đường Mac-Mahon [nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa] để tới mô súng. Ở nơi đó, người ta bắn đại bác, người ta cho lính thao diễn, người ta thử thách tượng binh. Quan tổng trấn sẽ đi một vòng phía sau thành và tới khu đóng tàu, tham dự một cuộc tập trận thủy chiến rồi trở về thành. Trong suốt quá trình diễu hành, dân chúng đốt pháo để xua đuổi ma quỷ trú ám trong nhà".

ĐÁNH BẠC CẦU MAY

Một trong những phong tục mà người nước ngoài đặc biệt chú ý là chơi cờ bạc vào những ngày tết. Cờ bạc là một hoạt động phổ biến của người Việt, không chỉ để giải trí mà còn để cầu may mắn cho năm mới. Bác sĩ Baurac viết rằng người Việt "lớn và nhỏ, trẻ như già, giàu hay nghèo đều chủ yếu tham gia các trò chơi vào ngày cuối cùng này [mùng 3]".

Michel Đức Chaigneau nhận xét: "Người Đàng Trong rất thích đánh bạc ăn tiền, họ say sưa sát phạt nhau trong suốt dịp lễ tết". Trong du ký của mình, Monnier nhận định "họ [người Việt] thích bài bạc; nhưng chỉ thỉnh thoảng vào những dịp đặc biệt - năm mới chẳng hạn - họ mới thoải mái đặt cược tài sản của mình vào trò ba quan [tức trò xóc đĩa hay mở bát]. Nếu không may mắn, họ nhẹ nhõm rời đi".

Các sòng bạc mọc lên ở khắp mọi nơi, người dân tụm ba tụm bảy "trong nhà, ngoài ngõ, ngay cả ven đường…" để sát phạt nhau, có thể kéo dài thâu đêm suốt sáng, ai lỡ đen đủi thua hết tiền thì chạy vạy vay mượn để tiếp tục cầu may, theo Michel Đức Chaigneau.

Bà Vassal cũng kể lại trò đỏ đen phổ biến ở Nha Trang lúc bấy giờ mà ai cũng thích chơi là canh bài "ba quan". "Thậm chí người ta bán bộ đồ mới để tiếp tục chơi bạc", "vì vậy, thợ thủ công khéo tay và thông minh nghèo vẫn cứ nghèo".

Monnier viết mấy dòng đầy tích cực rằng "đồng bào của họ luôn đầy tình thương, có thể cho vay mượn dễ dàng. Với những người này, làng xóm sẽ lấy tiền túi hoặc quyên góp để giúp đỡ người đánh bạc và chu cấp cho anh ta miếng cơm manh áo, miễn là anh ta cũng trả lại như thế".

Theo phong tục xưa, ngay từ lúc giao thừa (nửa đêm bắt đầu sang mùng 1), người Việt đã thực hành nghi thức cúng bái tổ tiên, sáng mùng 1 làm lễ dâng cúng, mỗi ngày dâng cúng 2 bữa đến sáng mùng 4 cúng tiễn ông vải, có nhà cúng đến mùng 7.

Ngoài lễ cúng là lễ mừng tuổi, người trẻ quỳ lạy bậc tôn trưởng 2 lạy và được đáp lại bằng tiền mừng tuổi. Tục xông đất với quan niệm vía nặng vía nhẹ đến nay vẫn còn, khiến không ít người cân nhắc không vội đến nhà người khác vào mùng 1 vì sợ bị đổ lỗi. Ngày tết, người dân cũng thường dựng cây nêu và rắc vôi bột, nhà nào cũng có món bánh chưng cúng tết, thiếu bánh chưng như thiếu tết…

Năm 1944, học giả Nguyễn Văn Vĩnh từng thiết tha trên tuần san Indochine rằng "đừng có tẩy chay tết", nhưng người xưa cũng có câu "lễ thời vi đại" tức lễ phải hợp thời là điều lớn nhất. Trọng lễ là điều đúng đắn nhưng cải cách lễ nghi phong tục cũng là vấn đề luôn được đặt ra, nhất là trong bối cảnh hiện đại, giữ gì, bỏ gì, giản lược gì để cách tân tiến bộ.

Tết Nguyên đán hay tết cổ truyền của người Việt là dịp trọng đại, "nó chấm dứt chuỗi dài liên tục của thời gian và khiến cuộc sống của con người và vạn vật trở nên nhịp nhàng hơn" (Jean Przyluski), là dịp người dân gác lại những muộn phiền, những lo toan thường nhật để trao gửi lời yêu thương, lời chúc tốt đẹp, cùng nhau chia sẻ niềm vui, để tưởng nhớ tổ tiên, nghỉ ngơi, vui chơi và sum vầy bên gia đình, bè bạn, vứt bỏ những phiền muộn, khó khăn của năm cũ và cùng nhau chào đón những điều tốt đẹp sắp đến…

Có thể nói rằng những ghi chép của người phương Tây về tết cổ truyền của người Việt không chỉ mang lại những cái nhìn mới lạ và phong phú về ngày tết, mà còn cho thấy dưới ảnh hưởng của văn hóa Pháp, tết cổ truyền vẫn giữ vững được những giá trị cốt lõi, phản ánh sức sống bền bỉ và sự kiên cường của một nền văn hóa dân tộc đặc sắc.

Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.