Những ai chơi sách cũ, nếu còn giữ được tập sách dạy vần Lên sáu in năm 1919, sẽ thấy thi sĩ Tản Đà nhận xét: “Chữ Quốc ngữ của ta chưa chu toàn”, do đó, ông đề nghị viết ong, ông, ung, ưng, oc, uc, ức bằng onh, ônh, unh, ưnh, ôc, uch, ưnh... Đã thế, ông còn đề nghị thay ươch bằng ưc (ví dụ: bực cười/bượch cười). Còn vì sao phải thay đổi như thế, không thấy ông giải thích.
Đây cũng chính là năm mà tờ Trung Bắc tân văn đã khơi dậy vấn đề cải cách chữ Quốc ngữ có tính bền bỉ, nhiều năm liền. Ban đầu, ông Phó Đức Thành than phiền các dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng không có ký hiệu tương ứng trong chữ cái điện báo morse, “khiến sai lầm tên người nọ sang người kia, lắm khi bắt bớ lôi thôi, chờ được vạ thì má đã sưng”. Do đó, các thanh điệu trên thay thế bằng b, d, k, l, q (ví dụ: Tuấn thành Tuand).
Ý kiến này chỉ là viên sỏi ném ao bèo chăng? Không, đây một gợi ý để năm 1925, Lê Mai viết quyển sách Quốc âm tân chế, đại khái dùng r thay cho dấu “á”, x thay cho dấu “râu”, b thay cho dấu “mũ”, thay các thanh điệu bằng x, f, z, v, k; dùng dh thay cho đ (ví dụ: Người đến đây viết là Nguoizzx dhenbv dhayb)...
Sự việc này có lẽ chẳng gây nên dư luận ồn ào nếu sau đó nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh không đặt lại vấn đề này. Bấy giờ, ông Vĩnh đang là cây bút quá nổi tiếng nên ý kiến của ông tạo nên sự chú ý đặc biệt. Từ tháng 10.1928 đến 2.1929, ông viết nhiều bài liên tiếp trên Trung Bắc tân văn xoay quanh vấn đề lý do sửa đổi chữ Quốc ngữ bỏ dấu phụ.
Đại khái, theo ông: “Chữ q làm dấu sắc vì cái nét xổ xuống cũng theo một chiều như khi đánh dấu sắc; chữ w làm dấu ngã vì hình dáng của nó cũng nhắc lại cho ta dấu ngã”… Để cổ động cho “chữ Quốc ngữ mới” trong ngót mấy tháng liền, tờ báo này còn sử dụng cách viết cải tiến cho các chuyên mục như Tin thêg gio’ig (Tin thế giới), Docj sachq (Đọc sách), Vâng dêf phuj nu’w (Vấn đề phụ nữ)…
Năm 1929, nhà giáo Dương Tự Nguyên cũng đăng loạt bài trên Văn học tạp chí, nhà văn Nguyễn Triệu Luật, kịch tác gia Vi Huyền Đắc, nhà nghiên cứu Ngô Quang Châu… không chỉ viết báo mà còn ra sách về sự cải tiến chữ Quốc ngữ theo quan điểm của mình. Theo ông Nguyên, dùng aa, ee, oo thay thế cho â, ê, ô… Nhiều học giả đề nghị viết liền các từ kép như bônba, xótxa, tổquốc, cườicười… Dễ dàng nhận ra sự bất cập, chẳng hạn “thịthành”, đọc thị thành hay thịt hành?
Chưa hết, sử gia Trần Trọng Kim lại có chủ trương khác nhiều người. Chữ Quốc ngữ là lối chữ viết ghi âm, thế nhưng ông lại chủ trương cũng sử dụng chữ cái Latin nhưng nhằm để ghi ý. Đồng thanh với ông có thể kể đến nhà văn Nguyễn Triệu Luật. Ví dụ, “minh” là từ Hán Việt có nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo nghĩa mà Trần Trọng Kim đề xuất: minhs (sáng), minht (mờ tối), minhth (thề)… hoặc thanh mà viết rthanh hiểu ý là trong, xthanh hiểu ý là xanh, tthanh hiểu ý là tiếng thanh…
“Quái dị” nhất của cải cách, theo hiểu biết của tôi thuộc về Vi Huyền Đắc. Khi biên soạn quyển Việt tự (1929) ông bỏ luôn cả chữ Quốc ngữ, tuy cũng là chữ viết ghi âm nhưng mượn chữ Hán, Nhật để chế ra con chữ thay chữ Latin.
Theo tài liệu của nhà sưu tập sách cũ Hoàng Minh thì khoảng năm 1945, tại Hà Nội, tờ Bình Minh chỉ rặt theo “Quốc ngữ in lối mới”. Nay có đọc thì ta cũng “bù trất”!
Cải cách chữ quốc ngữ sau Quốc khánh 2.9
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cuối năm 1946, Ban chuyên môn Bình dân học vụ Trung ương đã soạn thảo văn bản cải cách chữ Quốc ngữ.
Theo Vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ (Viện Văn học, Ủy ban Khoa học Nhà nước - 1961, tr. 62): “Dùng z thay cho d và d thay cho đ; dùng j thay cho gi, f thay cho ph; dùng k thay cho c và q, làm con chữ phụ âm đầu: cũ kỹ, quả quýt, quê quán viết kũ kỹ, kuả kuýt, kuê kuán (trong trường hợp con chữ là phụ âm cuối, thì vẫn dùng c như cũ: ac, ăc). Bỏ h trong gh và ngh…
Tuy nhiên, vấn đề cải cách này chưa kịp đưa ra bàn thảo thì đã nổ ra cuộc kháng chiến toàn quốc. Có một chi tiết cần nhắc lại để thấy rằng vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ vẫn luôn được giới trí thức quan tâm: năm 1948 tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần 2 ở Việt Bắc, một lần nữa vấn đề này được đặt ra nghiêm túc. Ở miền Nam, năm 1950, nhà nghiên cứu Nguyễn Bạt Tụy cho in công trình Çử và vần Việd khwa họk (Chữ và vần Việt khoa học - NV) với mục đích: “Dùng chữ cho đúng với âm mình muốn phát và ghép chữ cho đúng với âm mình muốn ghép”.
Năm 1960, nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội Nghiên cứu Miến Điện, đại diện cho đoàn đại biểu miền Nam, ông Nguyễn Đình Hòa đã phát biểu tham luận Tiêu chuẩn hóa chính tả Việt Nam tại hội nghị, cũng là vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ.
Bình luận (0)