Các kênh huy động vốn đều khó
Mặc dù chiếm số lượng đông nhất nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chỉ có tổng nguồn vốn 16,6 triệu tỉ đồng, chiếm chưa đến 30% tổng nguồn vốn hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn bộ khu vực doanh nghiệp (DN). Dư nợ tín dụng cho DNNVV năm 2024 chỉ đạt gần 17,6%. Thế nên trong hầu hết kiến nghị liên quan của nhóm này, tình trạng khó khăn tiếp cận vốn luôn được nêu ra đầu tiên.

Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được tạo cơ hội tiếp cận về vốn
ẢNH: CTV
Ông Nguyễn Ngọc Luận, Giám đốc Công ty TNHH Liên kết Thương mại Toàn Cầu (chủ thương hiệu cà phê nông sản Meet More), dẫn chứng: Chưa nói đến tài sản thế chấp là yêu cầu đầu tiên của tất cả DN khi cần vay vốn ngân hàng, điều kiện về hồ sơ vay vốn bao gồm doanh thu, lợi nhuận cũng "chặn đứng" cửa vay của các công ty khởi nghiệp (start-up), công ty nhỏ. Ngay cả nhiều chương trình hỗ trợ cho vay của nhà nước theo ngành nghề ưu tiên cũng chung chung, nên ngân hàng sẽ quay lại các điều kiện như trên.
"Nhưng bản chất của các DN nhỏ, start-up thì chưa thể có lãi ngay mà phải sau 2-3 năm, có khi lên 5-6 năm. Doanh thu cũng chưa thể cao ngay mà phải mất thời gian. Trong khi đó, huy động vốn qua thị trường chứng khoán không được, kêu gọi đầu tư mạo hiểm không dễ, góp vốn cá nhân thì dễ phát sinh tranh chấp vì không có những quy định pháp lý cụ thể. Nói chung cửa vốn kênh nào cũng hẹp", ông Luận nói.
Theo ông Luận, Đảng và Chính phủ đang thúc đẩy phát triển DN tư nhân và lĩnh vực sáng tạo đổi mới. Trong bối cảnh đó, các DN khởi nghiệp dù có tỷ lệ rủi ro cao nhưng cần được khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để có thể ra đời và sau đó phát triển trở thành DN lớn. Vì thế, các chính sách tạo điều kiện, hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn cần được gia tăng với quy định phù hợp hơn. Ngược lại, nếu vẫn cứ áp theo tiêu chí về doanh số, lợi nhuận thì không đúng tinh thần hỗ trợ cho lực lượng DN nhỏ. Hoặc các chương trình cho vay ưu đãi thì thời gian cần kéo dài 2-3 năm, nếu chỉ ưu đãi trong 3 tháng, 6 tháng thì cũng không được bao nhiêu.
Ông Nguyễn Quốc Anh, Giám đốc Công ty nhựa Đức Minh - Chủ tịch Hội Cao su - Nhựa TP.HCM, cũng khẳng định: Nhóm DNNVV luôn khó khăn để tiếp cận vốn vay từ ngân hàng và bị bó buộc trong vòng luẩn quẩn "con gà và quả trứng". DN muốn thay đổi công nghệ, đáp ứng yêu cầu của khách hàng, hạ giá thành sản phẩm thì phải đầu tư máy móc hiện đại nên cần nguồn vốn lớn. Nhưng chưa có máy móc thì chưa có khách hàng, chưa có khách hàng thì dự án bị đánh giá không khả thi nên khó vay được vốn ngân hàng. Đó là chưa kể nếu vay thông thường thì DNNVV luôn phải chịu lãi suất cao hơn DN lớn, DN nước ngoài…
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DNNVV VN, chỉ rõ: Điều kiện cho vay từ ngân hàng khiến nhiều công ty khó đáp ứng. Hiện nay chỉ có khoảng 30-35% DNNVV có thể tiếp cận vốn vay ngân hàng với tài sản thế chấp hiện có, một số ngân hàng thực hiện cho vay dựa trên tài sản hình thành trong tương lai nhưng "rất nhỏ giọt". Do vậy, hiệp hội kiến nghị Chính phủ có chính sách khuyến khích hệ thống các tổ chức tín dụng đẩy mạnh hình thức cho vay thế chấp dựa trên tài sản hình thành trong tương lai.
Giấy phép con trói chân
Thủ tục, giấy phép con, kiểm tra chuyên ngành... cũng là những "cái tròng" đang khiến DNNVV không thể lớn nổi. Ông Nguyễn Ngọc Luận lấy ví dụ việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của công ty dù đã nộp hồ sơ đầy đủ nhưng phải chờ cơ quan chức năng rà soát và sau 2 năm mới chấp thuận để thực hiện đăng ký. Trong khi đó, công ty đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở các nước như Mỹ, Úc, Hàn Quốc… thì trung bình thủ tục chỉ mất khoảng 6 tháng. "Khoảng thời gian chờ đợi đó, DN vẫn phải sử dụng thương hiệu, nhãn hiệu đó để sản xuất, bán hàng ra thị trường với nhiều chi phí đầu tư, nghiên cứu sản phẩm… Giả sử nếu sau 2 năm mà DN bị từ chối đăng ký bảo hộ thì sẽ phải thay đổi làm lại từ đầu. Như vậy sẽ mất rất nhiều chi phí về tài chính, thời gian và kể cả cơ hội đầu tư phát triển", ông Luận nêu rõ.
Ông Nguyễn Văn Thân cũng chỉ ra hiện vẫn còn tồn tại khoảng 16.000 "giấy phép con" chồng chéo, không cần thiết, gây mất thời gian của DN và cả người thực hiện hành chính công. "Chính phủ cần đẩy mạnh chỉ đạo cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phấn đấu giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính; ít nhất 30% chi phí kinh doanh, đặc biệt là hải quan, chi phí tuân thủ quy định, chi phí không chính thức, và bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết", ông Thân kiến nghị.
Còn theo ông Nguyễn Chánh Phương, Phó chủ tịch Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TP.HCM, niềm tin là yếu tố quan trọng để người dân khởi nghiệp làm ăn, DN mạnh dạn đầu tư phát triển hơn. Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định niềm tin vào lực lượng kinh tế tư nhân, đồng thời gợi ý những cải cách đột phá để kinh tế tư nhân có thể phát huy tối đa tiềm năng. Niềm tin đó sẽ lan tỏa đến cộng đồng DN, tạo động lực mới để họ sáng tạo, đổi mới, góp phần phát triển kinh tế. Vì vậy, ông kiến nghị song song với việc sắp xếp bộ máy thì cần đẩy mạnh tinh gọn thủ tục hơn nữa. Càng bỏ bớt nhiều quy định hạn chế, giảm bớt thủ tục, giảm sự can thiệp của nhà nước thì mọi cá nhân, DN sẽ tự tin đầu tư, kinh doanh. Khi đó, những nút thắt trong các thủ tục liên quan chỉ còn là vấn đề kỹ thuật...
"Các điều kiện, thủ tục hạn chế kinh doanh đa số mang tính lợi ích cục bộ và cần được xem xét, bãi bỏ càng nhiều càng tốt. Đi đôi với việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy của Chính phủ thì phải tiến hành cắt giảm thủ tục, điều kiện kinh doanh. Điều đó sẽ tạo niềm tin vào sự đổi mới, kinh tế phát triển mạnh thì các doanh nhân, DNNVV sẽ có thêm động lực để tăng tốc hơn nữa", ông Nguyễn Chánh Phương chia sẻ.
Chi phí tuân thủ mà chúng ta đo lường bằng bao nhiêu tiền không thấm gì so với chi phí cơ hội mà chúng ta mất. Một dự án kéo dài 3 - 7 năm là chi phí cơ hội rất lớn. Về nguyên nhân, hệ thống pháp luật của chúng ta được xây dựng dựa trên tư duy là hiểu biết đến đâu thì chúng ta quản lý đến đấy, hiểu biết đến đâu thì chúng ta mở đến đấy và không quản được thì cấm. Tư duy này đã tạo ra nhiều quy định, nhiều công cụ quản lý và hàng loạt thủ tục hành chính phức tạp, gây cản trở cho sự phát triển cũng như đặt người dân và DN đứng trước rủi ro pháp lý rất lớn. Cùng với tinh gọn về bộ máy, cần có một cuộc cách mạng tinh gọn về hệ thống pháp luật. Theo quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm là cùng một nội dung, cùng một vấn đề thì chỉ nên quy định 1 luật duy nhất. Việc rà soát cắt giảm các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chuyển mạnh từ "tiền kiểm" (bằng các thủ tục hành chính, cấp phép...) sang "hậu kiểm" theo tiêu chuẩn, quy chuẩn, mức độ rủi ro và lịch sử tuân thủ của đối tượng quản lý...
TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư
Bình luận (0)