Văn hóa thi cử khoa bảng để lại mặt tích cực và tiêu cực
Từ xa xưa, người Việt Nam chúng ta đã có truyền thống coi trọng lễ nghĩa, coi trọng sự học. Theo lịch sử, chế độ khoa cử bắt đầu từ thời nhà Lý, năm 1075, được áp dụng để lựa chọn và bổ nhiệm quan chức.
Hệ thống này có 3 cấp độ: thi hương, thi hội và thi đình. Thi đình là kỳ thi quan trọng nhất và khó nhất đối với các sĩ tử và do nhà vua trực tiếp làm giám khảo để tuyển chọn ra những tài năng ưu tú nhất của đất nước. Sau kỳ thi, nhà vua bổ nhiệm các tiến sĩ vào những chức quan nhất định. Các tiến sĩ thường được triều đình mời dự yến tiệc, được vua ban phẩm phụ, được “vinh quy bái tổ”.
Một số ưu điểm của chế độ khoa cử này khiến nó tồn tại bền vững dọc theo chiều dài lịch sử. Trước tiên, là tính đơn giản, không tốn kém cho cả triều đình và người dân vì nó chỉ liên quan đến việc tổ chức thi. Thứ hai, nó không có yêu cầu đầu vào, hay nói cách khác, bất luận giàu, nghèo, thành phần gia đình, ai cũng có thể được tham gia.
Bên cạnh những mặt tích cực thì văn hóa khoa bảng cũng có những mặt tiêu cực, nhất là việc quá chú trọng vào thi cử và bằng cấp nên xuất hiện kiểu học vẹt, học để thi chứ không phải “học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” mà UNESCO đã khởi xướng...
Trong xã hội hiện đại hôm nay, những ảnh hưởng tích cực từ văn hóa khoa bảng vẫn còn rất đậm nét. Đó là truyền thống hiếu học của ngườiViệt Nam, là niềm tin vào sự chăm chỉ, chịu khó sẽ mang lại thành quả tốt đẹp trong tương lai. Hầu hết các gia đình ởViệt Nam đều tin rằng đầu tư vào học tập là phương thức tốt nhất để mang lại thành công cho con sau này.
Tuy nhiên, chế độ khoa cử cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến những mặt trái, những hệ lụy tiêu cực trong xã hội hiện đại. Đó là việc đề cao thành tích thi cử hơn là sự học, thực học để tự trau dồi nâng cao kiến thức; coi trọng và đề cao bằng cấp hơn là năng lực thực sự.
Không phải lúc nào bằng cấp cũng cần thiết
Thực tiễn cho thấy ở xã hội hiện đại, ngoài con đường học vấn, bằng cấp cao thì còn nhiều con đường khác có thể mang lại thành công như lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao…
Trở thành bác sĩ là ước mơ đẹp của nhiều bạn trẻ, của nhiều gia đình. Tuy nhiên, nếu không trở thành bác sĩ được thì vẫn có thể là một y tá, một hộ lý tận tụy với nghề, yêu thương và chăm sóc bệnh nhân bằng cả tấm lòng. Họ sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong công việc.
Tùy vào ngành nghề khác nhau, yêu cầu về bằng cấp là khác nhau. Đối các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài thì rõ ràng năng lực là yếu tố quyết định chứ không phải là bằng cấp.
Đối với cán bộ giảng dạy trong các trường đại học thì cần phải có chuyên môn sâu, có năng lực nghiên cứu và giảng dạy kiến thức nên yêu cầu về bằng cấp là cần thiết.
Trái lại, đối với các lĩnh vực quản lý công thì khả năng tự học, thực học của công chức, viên chức để trau dồi kiến thức, kỹ năng là quan trọng hơn cả. Đối với các lĩnh vực này, hồ sơ tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, nên cân nhắc chỉ cần ghi trình độ cao nhất là tốt nghiệp đại học. Đối với kỹ năng ngoại ngữ, tin học, nếu là yêu cầu bắt buộc thì nên ưu tiên sử dụng các chứng chỉ quốc tế vì nó được cả thế giới công nhận.
Vì vậy, thay đổi quan niệm về thi cử và bằng cấp là một trong các bước tiến dần đến học thật, thi thật, nhân tài thật.
Bình luận (0)