>> Theo dấu người xưa - Kỳ 19: Đi tìm dấu tích Thần kinh nhị thập cảnh
>> Theo dấu người xưa - Kỳ 18: Sứ thần tài hoa
>> Theo dấu người xưa - Kỳ 17: Ông Thủ Huồng
>> Theo dấu người xưa - Kỳ 16: Đại Giác cổ tự và mối tình công chúa
Cảnh chùa Thiên Mụ
Nói cảnh đẹp Thiên Mụ chung thanh, không có nghĩa vua Thiệu Trị chỉ ca ngợi vẻ đẹp của tiếng chuông hay mỗi chiếc chuông đồng mà ở đây nhà vua đã chọn linh hồn của toàn bộ cảnh đẹp ngôi chùa để đặt tên và vịnh thơ ca ngợi.
|
Tương truyền, năm Tân Sửu (1601), chúa Nguyễn Hoàng, nhân buổi dạo chơi phong thủy, thấy vùng đồng bằng xã Hà Khê có một ngọn đồi cao nổi lên như hình rồng quay đầu nhìn lại, phía trước trông ra sông dài, phía sau có hồ lớn, cảnh trí rất đẹp. Chúa Nguyễn Hoàng hỏi người dân địa phương, người ta cho biết ngọn đồi này linh lắm, xưa có bà lão mặc áo đỏ quần xanh, ngồi trên ngọn đồi nói rằng: “Rồi sau sẽ có vị chân chúa đến đây sửa núi lập chùa để tụ linh khí, giữ bền long mạch”. Nói xong, bà lão biến mất. Chúa Nguyễn Hoàng cho rằng đất này có khí thiêng nên mới lập chùa đặt tên là Thiên Mụ. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), ông là một cư sĩ tại gia thọ giới với ngài Thạch Liêm hòa thượng, phái Tào Động, pháp danh là Hưng Long, rất chú trọng đến việc chăm lo kỷ cương phép nước, khuyến khích xây dựng chùa chiền, chấn hưng Phật giáo.
Vào năm Canh Dần (1710), chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho đúc đại hồng chung đặt trong một ngôi nhà bát giác phía bên phải tháp Phước Duyên (nhìn từ trong ra). Chuông cao 2,5 m, đường kính miệng 1,4 m, cân nặng 3.285 cân (tương đương 1.986 kg). Trên chuông có khắc bài Minh của chúa Nguyễn Phúc Chu, trong đó có đoạn: “Quốc chúa Đại Việt Nguyễn Phúc Chu nối dòng Tào Động chánh tông, đời thứ 30, pháp danh Hưng Long, đúc đại hồng chung cân nặng 3.285 cân, tôn trí tại chùa Thiên Mụ để cung phụng tam bảo, chú nguyện mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an”. Tương truyền trong ngày rằm Phật đản, chú nguyện đúc chuông có hàng trăm quan viên phật tử đến quy y, thọ giới đã phát tâm cúng dường thả vào vạc đồng sôi chảy hàng lượng vàng, bạc, châu báu... bằng một niềm tin bất hoại. Chính vì vậy chiếc chuông đã mang trong mình cả những giá trị tâm linh và một hàm lượng hợp kim đặc biệt tạo nên âm thanh ngân nga siêu thoát.
Đến thời vua Thiệu Trị, vua đã cho xây tháp Từ Nhân (sau đổi tên thành tháp Phước Duyên) cao bảy tầng và xây đình Hưng Nguyện, viết văn bia để lưu giữ công đức xây tháp và đình. Vua cũng cho xây dựng hai tiểu đình trước Nghi môn để dựng bia đá khắc bài Thiên Mụ chung thanh và xếp chùa Thiên Mụ vào cảnh đẹp thứ 14 trong 20 cảnh đẹp chốn thần kinh. Trong bia khắc bài Thiên mụ chung thanh của vua Thiệu Trị có đoạn:
“Bách bát hồng thanh tiêu bách kết/Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên...” (Một trăm lẻ tám tiếng chuông tiêu tan trăm nỗi oan kết muộn phiền/Ba ngàn thế giới tỉnh ba duyên”.
Giai thoại về tiếng chuông
Chiếc chuông đang làm nhiệm vụ giữ nhịp thời gian của “tiếng chuông Thiên Mụ” hiện nay được đúc vào năm Gia Long thứ 14 (1815), đặt trên lầu chuông bên trái cổng Tam quan, để đi vào điện Đại Hùng.
Trong thời đại phong kiến, người đánh chuông chùa Thiên Mụ do Tăng cang (chức danh do triều đình phê chuẩn) của chùa phân công. Kế tục hạnh nguyện và giữ hồn cho tiếng chuông Thiên Mụ hiện nay là các nhà sư trẻ đang tu học tại chùa. Thượng tọa Thích Trí Tựu cho biết từ xưa đến nay, chuông chùa vẫn được đánh mỗi ngày hai thời (hai lần), vào 19 giờ 30 và 3 giờ 30. Mỗi lần đánh trong thời gian một tiếng đồng hồ bằng 108 tiếng chuông để xóa đi nỗi phiền muộn trong thế gian.
Cái khó của tiếng chuông Thiên Mụ mà không phải bất kỳ ai cũng đánh được đó là phải đánh đúng 3 giờ 30 mỗi sáng trong một tiếng đồng hồ và bằng 108 đùi. Với một học giả chưa có đủ công phu thì chắc chắn sẽ không làm chủ được bản thân để mỗi sáng thức dậy đúng giờ và đánh đủ 108 tiếng chuông trong 60 phút mà không phải can đồng hồ hay dùng bất cứ phương pháp nào để giữ nhịp.
Giai thoại thiền môn kể rằng, cố hòa thượng Thích Đôn Hậu là một thiền sư gắn liền nhiều nhất với hạnh nguyện đánh chuông. Lúc sinh thời, những khi còn khỏe, hòa thượng thường thức dậy đánh chuông hằng đêm và tiếng chuông của ngài có âm thanh vang vọng thanh thoát một cách lạ thường. Những người cao niên ở các làng Nguyệt Biều, An Ninh Thượng, Long Hồ, Ngọc Hồ, Lựu Bảo và Xuân Hoa... xung quanh khu vực chùa Linh Mụ, trước đây vẫn cho biết khi nào hòa thượng đi vắng hay đau ốm mà tiếng chuông được người khác thay thế là người ta biết ngay. Bởi âm sắc và nhịp điệu của tiếng chuông sẽ khác hẳn. Tiếng chuông Thiên Mụ ngoài âm sắc của tiếng đồng được chế tác bằng một kỹ thuật đúc truyền thống hoàn hảo, nó được vang xa nhờ vào vị trí đặt chuông trên đồi cao, lại có dòng sông Hương trải dài như một chất dẫn truyền tự nhiên huyền diệu... Nhưng trên tất cả những yếu tố ấy còn có ẩn chứa một âm sắc vi diệu khó diễn đạt từ chính công phu thiền định và hạnh nguyện từ bi được chuyển tải trong mỗi tiếng chuông của người hành đạo.
Chùa Thiên Mụ (còn gọi là Linh Mụ) tọa lạc trên một ngọn đồi thuộc xã Hà Khê (cũ) mặt trước nhìn xuống sông Hương, cách cố đô Huế về phía tây khoảng 5 km. Sách Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An viết năm 1553, đã mô tả về ngôi chùa: Chùa nằm phía nam xã Hà Khê, huyện Hương Trà, ở trên đồi núi, dưới giáp dòng sông, cảnh đẹp vượt hẳn ba nghìn thế giới, gần gang tấc với thiên trì. Khách tản bộ đăng lâm bỗng chốc phát lòng lành, tiêu tan tục lụy…”. |
Bùi Ngọc Long
>> Kỳ 29: Ngôi chùa của ân nhân chúa Nguyễn
>> Theo dấu người xưa - Kỳ 5: Ngôi chùa nơi vua Minh Mạng chào đời
>> Ngôi chùa lâu đời nhất trên đảo Phú Quốc
Bình luận (0)