(TNO) Thời điểm để đặt ra câu chuyện hòa hợp, hòa giải dân tộc đã trôi qua từ lâu. Vấn đề này hiện nay cần được nhìn nhận dưới những góc độ khác. Nhận định này được Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh, nhà ngoại giao lão thành, nguyên thành viên đoàn đàm phán Hiệp định Paris 1973 chia sẻ với Thanh Niên Online.
>> Hòa hợp tạo ra sức mạnh cho dân tộc
|
Ông Huỳnh lý giải: Lúc đầu đàm phán Paris, tư tưởng của ta là giành thắng lợi, buộc Mỹ rút, lập chính phủ liên hiệp và sau đó chính phủ sẽ đoàn kết toàn dân. Điều này có nghĩa là toàn dân Việt Nam dù phe này phe kia, tập hợp ba lực lượng: lực lượng cách mạng, lực lượng đối địch, lực lượng thứ ba cũng sẽ đoàn kết lại dưới sự lãnh đạo của chính phủ liên hiệp. Lúc đó chưa có khái niệm hòa hợp dân tộc.
Nhưng trong quá trình đàm phán và chiến đấu ta thấy đánh Mỹ khó, đánh thắng Mỹ lại càng khó. Ta đánh lâu dài thì Mỹ cũng có khả năng đánh lâu dài. Lúc đầu mình tính chính phủ liên hiệp nhưng sau sự kiện Mậu Thân 1968 và sau đó năm 1972, ta không có những thắng lợi quyết định.
Vậy phải tính thế nào? Năm 1972 ta mới đề ra đường lối tìm cách mở đường cho Mỹ rút. Ta mới đưa ra khẩu hiệu là “Mỹ rút, Sài Gòn còn, miền Nam giữ nguyên trạng”. Để liên kết các lực lượng miền Nam thì đặt ra vấn đề hòa hợp dân tộc.
|
Vấn đề ấy được đặt ra trong lúc ta tính tới phương án giữ nguyên trạng miền Nam. Vì vậy ta đưa vào dự thảo Hiệp định và bàn kỹ vấn đề hòa hợp dân tộc.
Lúc đầu ta gọi là chính phủ liên hiệp ba thành phần. Chính phủ Mỹ không chấp nhận được vì chính phủ mới có nghĩa là thủ tiêu Sài Gòn. Ta mới hạ thấp xuống là “một chính quyền hòa hợp dân tộc”, gần gần với lập trường của Mỹ. Mỹ đề xuất một “body” - một tổ chức để tổng tuyển cử.
Mỹ dùng chữ “body” thì mình cũng dịu bớt đi, đề xuất là trong lúc chính quyền hai bên tồn tại, thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc để tiến tới tổ chức tổng tuyển cử thành lập chính quyền (đưa thêm khái niệm hòa giải, vì là hai kẻ địch.)
Nhưng Mỹ không chấp nhận chữ “chính quyền”. Chữ “chính quyền” có gì đó mang ý nghĩa thủ tiêu Sài Gòn. Vì thắng lợi của mình năm 1972 cũng có mức độ thôi, chưa thể lấn át Mỹ được, nên ta lấy yêu cầu Mỹ rút là chính. Mỹ nhận rút và quân miền Nam ở lại là đạt yêu cầu cao nhất rồi, ta mới chấp nhận thành lập một hội đồng quốc gia hòa giải, hòa hợp dân tộc. Hiệp định có điều khoản thành lập một hội đồng quốc gia hòa giải hòa hợp dân tộc để tổ chức tổng tuyển cử và đôn đốc thi hành Hiệp định.
Lúc đó hình thành khái niệm hòa giải hòa hợp dân tộc.
Đấy là quá trình đàm phán đi đến hòa giải hòa hợp dân tộc. Ta thấy không có con đường nào khác cả. Bởi vì chúng ta thắng thế nào thì Sài Gòn cũng vẫn sẽ còn. Dù lập chính phủ hai thành phần, ba thành phần hay giữ nguyên trạng thì cũng vẫn phải có hòa giải, hòa hợp. Không có cách nào khác. Không có bên nào thắng bên nào. Thực tế miền Nam có ba lực lượng, hai chính quyền thì phải giải quyết với nhau như vậy.
Nhờ những sách lược mềm dẻo của ta, mà trong đó có việc tạm gác vấn đề xóa Sài Gòn, thực hiện một hình thức hòa giải, hòa hợp dân tộc mà tổ chức ấy chỉ là hội đồng thôi chứ không phải chính quyền, chính phủ gì nên Mỹ chấp nhận.
Nhờ đó mà ký được Hiệp định. Hiệp định Paris là gì? Là một hình thức thỏa hiệp giữa Việt Nam trên đường thắng lợi với Mỹ tuy thua nhưng vẫn đang còn mạnh và chính quyền Sài Gòn còn là một thực thể. Hiệp định Paris là một sự thỏa hiệp “phải chăng”. Vì vậy 4 bên chấp nhận được, Việt Nam chấp nhận được, Mỹ cũng chấp nhận được mở đường cho Mỹ rút, Sài Gòn cũng chấp nhận được.
Bà con Việt kiều về Việt Nam ăn Tết: Nụ cười đoàn viên... - Ảnh: Độc Lập
|
* Thanh Niên Online: Sau ngày 30.4.1975 vấn đề hòa giải dân tộc đã được thực hiện như thế nào? Có điều gì chúng ta đã làm được và chưa làm được?
- Đại sứ Nguyễn Khắc Huỳnh: Ta đã chân thành đấu tranh thi hành Hiệp định Paris 1973, thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc. Ta đã làm việc rất tích cực với các lực lượng thứ ba. Nhưng kết quả rất hạn chế. Ngay đêm Hiệp định có hiệu lực (27.1.1973), chính quyền Thiệu đã cho chiếm Cửa Việt, sau đó ta phản kích lấy lại. Có thể nói là không có lấy một ngày hòa bình. Đã không có hòa bình thì không có điều kiện cho hòa hợp.
Nhưng sau khi ta thắng lợi giải phóng miền Nam thì vấn đề hòa hợp trở thành vấn đề lớn. Thậm chí là cực kỳ lớn.
Nhưng khi ta thắng lợi rồi thì chính sách hòa hợp dân tộc thực hiện được bộ phận thôi chứ chưa được rộng rãi và có kết quả. Phải thẳng thắn nhìn nhận là nhiều chính sách của ta sau giải phóng khá nặng nề với sĩ quan, binh lính chế độ cũ cũng như gia đình họ. Rồi chuyện báo chí Sài Gòn bị đóng cửa hầu hết, tất cả hoạt động kinh doanh của miền Nam bị hạn chế... Sau đó là hợp tác hóa, cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến chuyện hàng chục vạn người bỏ nước ra đi, thành phong trào “thuyền nhân”. Đó là một trang sử đau thương, đen tối của chúng ta.
Khi tôi sang dự một hội thảo liên quan đến chiến tranh Việt Nam tại ĐH Brown (Mỹ), ban tổ chức có bố trí một chương trình giao lưu với các giáo sư và khoảng 1.000 sinh viên. Tôi nhận được vài chục câu hỏi trong đó có câu hỏi liên quan đến vấn đề này. Một sinh viên hỏi: Thưa ngài đại sứ, Việt Nam đã chiến thắng Mỹ, các ngài coi là “giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc” nhưng tại sao lại có chuyện hàng triệu người bỏ nước ra đi?
|
Tôi đã trả lời thế này: Đó là chuyện rất đáng tiếc. Về nguyên nhân thì thứ nhất là trong suốt thời gian chiến tranh, quân đội, các nhà chức trách Mỹ cũng như chính quyền Sài Gòn qua mấy đời tổng thống đều tuyên truyền nếu Việt Cộng về sẽ có nạn tắm máu. Sau 30.4.1975 nhiều người đã lo lắng chuyện “tắm máu” vì vậy việc đầu tiên họ tính là ra đi. Có mấy loại người ra đi: người thuộc chính quyền cũ, những người thấy làm ăn không thuận lợi, người giàu có và sau là những người sợ tắm máu.
Có một số người nữa thấy kinh tế Việt Nam đã nghèo lại còn bị chiến tranh tàn phá nên cũng kiếm đường ra đi.
Một lý do nữa, chúng tôi chiến trận thì biết nhưng làm kinh tế chưa nắm được tình hình, chưa làm tốt, chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân nên họ bỏ ra đi.
Nguyên nhân cuối cùng là việc thống nhất đất nước qua con đường chiến tranh thì đã làm tốt nhưng việc tranh thủ lòng người thì chưa làm tốt, chưa thực hiện hòa hợp tốt.
Tôi cũng bổ sung thêm: Dù nguyên nhân gì và những người ra đi khỏi Việt Nam như thế nào, chúng tôi luôn luôn coi họ thuộc dân tộc Việt Nam và luôn luôn sẵn sàng mở cửa để ai về thăm, ai về nước, ai liên lạc lại, cả ba mức đó chúng tôi đều chấp nhận, mở cửa rộng rãi.
Tôi nói vậy, mọi người vỗ tay rất mạnh.
* Tại sao sau 30.4.1975, ta chưa thực hiện tốt hòa hợp dân tộc?
- Phải nói là ta đã có thực hiện được một số việc chứ không phải không làm được gì. Nhưng trong phạm vi hẹp. Đối với những người thuộc lực lượng thứ ba ta đều giữ lại dùng cả. Một số giáo sư tiếp tục ở lại giảng dạy, những nhân vật cao cấp thuộc chính quyền cũ đầu hàng ở dinh Độc Lập ta đều tôn trọng, không bắt bớ gì mà để họ được tự do. Một số người thuộc chính quyền cũ cũng được đối xử tương đối nhẹ nhàng. Nhưng những chuyện ấy chỉ diễn ra ở diện hẹp.
Tại sao không thực hiện được hòa hợp dân tộc để xảy ra những chuyện như tôi vừa nói? Đây là quan điểm của cá nhân tôi thôi, chứ chưa có tổng kết: Theo tôi, nguyên nhân thứ nhất là thắng lợi lớn quá. Đến mức ngợp. Không kịp suy nghĩ gì cả. Đến cái mức mà có lãnh đạo cấp cao của ta nói là bây giờ đã hết kẻ thù, vĩnh viễn sẽ không có chiến tranh nữa.
Nguyên nhân thứ hai, lúc ấy tư tưởng giáo điều ý thức hệ rất nặng nề, thể hiện ở chuyện “thành phần”. Phân biệt kẻ thắng người thua rất nặng nề. Tư tưởng địch-ta nặng nề. Rồi tư tưởng XHCN đối lập với tư bản. Nhiều cái giáo điều ý thức hệ như vậy nên chuyện hòa hợp là không thể.
Nguyên nhân thứ ba là trình độ nghiên cứu của ta rất thấp. Không nghiên cứu được là sau khi giải phóng miền Nam cái gì sửa cái gì giữ, đối xử với các tầng lớp thế nào...
|
* Theo ông hiện nay vấn đề hòa hợp dân tộc cần đặt ra như thế nào? Đặt ra với ai?
- Theo tôi có lẽ đặt ra trước hết với người Việt ở nước ngoài. Thứ hai là đối với các tầng lớp nhân dân trong nước. Tôi chỉ xin chia sẻ một vài suy nghĩ của tôi có thể đúng, có thể chưa đúng nhưng để chúng ta suy nghĩ.
Đối với người Việt ở ngoài nước hiện có 3 - 4 cộng đồng có quan niệm khác nhau.
Nhóm thứ nhất là cộng đồng những người Việt mà ta gọi là “người Việt yêu nước”. Theo tôi cái chữ ấy nên bỏ đi, không ai lại phân biệt bằng khái niệm “yêu nước” với “không yêu nước”. Lấy gì để xác định yêu nước? Nên nhìn họ như những Việt kiều có quan niệm thuận với trong nước.
Nhóm thứ hai sống bình thường, họ không ủng hộ mà không gây sự, chỉ lo tập trung làm ăn. Tôi cho rằng đây là nhóm đa số, bây giờ mời họ về giúp nước là khó đấy. Đây là nhóm mà Nhà nước cần có chính sách tranh thủ.
Thứ ba là lực lượng đối lập, có phê phán những chính sách, có đóng góp ý kiến, phê phán.
Nhóm cuối cùng là những người đối nghịch hoặc báo chí ta gọi nặng nề là chống cộng. Họ là những người công khai không tán thành chủ nghĩa cộng sản, nhóm này theo tôi biết bên Mỹ có nhiều.
Thế bây giờ đặt vấn đề thế nào? Đối với những người đã ủng hộ đã sống hòa hợp, thích hợp rồi thì ta tiếp tục tranh thủ, tạo điều kiện để họ đi về đóng góp thăm viếng đất nước. Những người chờ đợi và chưa có thái độ rõ ràng là lớp người còn xa ta nhưng mà không chống đối, chính là cần thực hiện hòa hợp dân tộc với những người đó. Thực hiện hòa hợp dân tộc ở đây không phải bằng lập trường giai cấp, bằng chủ nghĩa cộng sản đâu, mà bằng TƯ TƯỞNG DN TỘC, TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC, ĐẶT LỢI ÍCH DN TỘC LÊN TRÊN HẾT.
Tôi cho rằng đối với Việt kiều càng đưa vấn đề ý thức hệ ra thì càng không có tác dụng. Tôi đối xử với anh bằng tinh thần dân tộc, bằng tinh thần yêu nước chứ không phải bằng ý thức hệ thì lúc đó mới nói chuyện được với nhau, nếu không thì còn nhiều khó khăn. Đối xử bằng lòng yêu nước bằng tinh thần dân tộc. Lấy lợi ích dân tộc đặt lên trên hết. Bất cứ thời đại hoàn cảnh nào thì lợi ích dân tộc vẫn là cao hơn cả, có sức mạnh hơn cả.
Còn đối với trong nước, vấn đề không phải là hòa hợp mà là làm sao tranh thủ sự đồng thuận, lấy lợi ích dân tộc để tranh thủ đồng thuận là đường lối chiến lược. Bây giờ tầng lớp nào trở nên quan trọng và cần tranh thủ đồng thuận? Ngoài nông dân, công nhân thì đặc biệt cần tranh thủ đội ngũ trí thức và doanh nhân. Đồng thuận chính là đồng thuận với hai tầng lớp này.
* Xin cảm ơn ông.
Trường Sơn
(thực hiện)
>> Cuộc hội ngộ của hai phóng viên chiến trường
>> Phải cố gắng bỏ qua nỗi đau quá khứ (*)
>> Ngày mai bắt đầu từ hôm qua
>> Nhạc sĩ Đức Huy: Tôi không còn "phung phí" cuộc sống như trước nữa
>> Bài 3: Tìm giải pháp khép lại chương sử đau thương
>> Bài 2: Để hải ngoại và trong nước san bằng dị biệt
>> Bài 1: Từ “nói chuyện bằng bom” đến đối thoại ôn hòa
>> Số phận kỳ lạ của Mai Elliott
>> Ông Nguyễn Hữu Hạnh: Mình là người Việt Nam
>> Chứng nhân bên bờ Hiền Lương
>> Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu: Người Việt Nam không chia rẽ
>> Người mẹ nào mất con cũng đau
Bình luận (0)