Theo khảo sát của VCCI, tỷ lệ doanh nghiệp có thể vay vốn được từ hệ thống các TCTD có xu hướng giảm trong thời gian qua. Nếu như năm 2017 có 49,37% doanh nghiệp tham gia khảo sát tiếp cận được vốn từ các TCTD thì con số này giảm qua các năm và chỉ còn 35,41% trong năm 2021. Điều đó cho thấy việc các chính sách của luật TCTD cần được xây dựng theo hướng thúc đẩy cạnh tranh giữa các TCTD để thu hút khách hàng. Tuy nhiên, nội dung của hồ sơ đề nghị xây dựng luật và các tài liệu thuyết minh chưa thể hiện được định hướng này. Trong các phần xác định vấn đề bất cập, bối cảnh và mục tiêu xây dựng chính sách chưa đề cập đến vấn đề tiếp cận tín dụng của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung nội dung về thực trạng, quan điểm và mục tiêu tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng trong hồ sơ đề nghị xây dựng luật.
Một kiến nghị khác được VCCI đề cập, đó là giới hạn tăng trưởng tín dụng là một trong những chính sách có ảnh hưởng lớn đến hệ thống ngân hàng của Việt Nam nhưng cơ sở pháp lý của chính sách này rất mỏng. Điểm e khoản 2 điều 59 của luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định, "Tùy theo tính chất, mức độ rủi ro, Ngân hàng Nhà nước còn áp dụng các biện pháp xử lý sau đây đối với đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng: Quyết định giới hạn tăng trưởng tín dụng đối với TCTD trong những trường hợp cần thiết bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng và hệ thống các tổ chức tín dụng".
Quy định này không rõ ràng biện pháp giới hạn tăng trưởng tín dụng này sẽ được áp dụng rộng rãi, đại trà cho tất cả các TCTD hàng năm hay chỉ áp dụng cho một số TCTD mà qua thanh tra, giám sát phát hiện có rủi ro cao hoặc có hành vi vi phạm pháp luật. Ngoài quy định trên, qua rà soát của VCCI, hiện không có quy định cụ thể hơn về vấn đề này. Điều đó dẫn đến sự không rõ ràng, thậm chí có nguy cơ tùy nghi trong việc phân bổ giới hạn tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng thương mại. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định về chính sách giới hạn tăng trưởng tín dụng vào dự thảo luật này và trình Quốc hội quyết định.
Ngoài ra, dự thảo quy định về việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng khi TCTD dừng giao dịch. Tuy nhiên, quy định này mới chỉ áp dụng cho hình thức giao dịch trực tiếp. Trong khi đó, hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều đã có hình thức giao dịch trực tiếp qua website hoặc các ứng dụng điện thoại. Việc dừng giao dịch trực tuyến tiềm ẩn một số rủi ro. Trong trường hợp ngân hàng dừng giao dịch trực tuyến kèm với một số tin tức tiêu cực về ngân hàng đó có thể dẫn đến việc người dân lo lắng và rút tiền hàng loạt. Vì thế, quy định về dừng giao dịch trực tuyến cần được nghiên cứu và thiết kế một cách thận trọng. Có thể cân nhắc một số quy định như trong trường hợp ngân hàng dừng giao dịch trực tuyến vì các lý do kỹ thuật (như để bảo trì máy móc) thì các ngân hàng chủ động. Trong trường hợp ngân hàng chủ động dừng giao dịch trực tuyến nhằm chặn người dân rút tiền hàng loạt thì cần có hướng xử lý kỹ hơn, ví dụ quy định về thẩm quyền, trình tự thủ tục, nghĩa vụ báo cáo đối với trường hợp này.
Bình luận (0)