Theo thông cáo đặc biệt của T.Ư Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu từ trần hồi 2 giờ 52 phút ngày 7.8.2020 (tức ngày 18.6 năm Canh Tý) tại nhà riêng, hưởng thọ 89 tuổi.
Để tỏ lòng tưởng nhớ nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Ban Chấp hành T.Ư Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Uỷ ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức tang lễ nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu với nghi thức quốc tang.
Lễ viếng nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu được tổ chức tại Nhà tang lễ quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội, bắt đầu từ 8 giờ ngày 14.8 đến 12 giờ ngày 15.8.2020.
Lễ truy điệu nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu tổ chức vào 12 giờ 30 phút, ngày 15.8 tại Nhà tang lễ quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ an táng lúc 14 giờ cùng ngày tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Cùng thời gian này, tại Hội trường Thống Nhất (TP.HCM) và Hội trường 25B (đường Quang Trung, TP.Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá) cũng tổ chức lễ viếng, lễ truy điệu nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu.
Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam sẽ tường thuật trực tiếp lễ viếng, lễ truy điệu và lễ an táng nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu tại Hà Nội, TP.HCM, tỉnh Thanh Hóa. Trong 2 ngày quốc tang (14.8 và 15.8.2020), các công sở, nơi công cộng treo cờ rủ và ngừng các hoạt động vui chơi giải trí.
Tóm tắt tiểu sử nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu
Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu sinh ngày 27.12.1931; quê quán: xã Đông Khê, H.Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Thường trú tại số nhà 7.36.C1 Lý Nam Đế, P.Cửa Đông, Q.Hoàn Kiếm, TP.Hà Nội. Tham gia hoạt động cách mạng năm 1947; vào Đảng ngày 19.6.1949.
Từ năm 1947 đến năm 1949, ông dạy bình dân học vụ ở xã. Tháng 6.1949, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ trách công tác tuyên truyền, làm Chánh Văn phòng Chi bộ xã.
Từ tháng 5.1950 đến tháng 8.1954, ông nhập ngũ, làm chiến sĩ, rồi đảm nhiệm các chức vụ Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng, Chính trị viên phó Đại đội, Chính trị viên Đại đội, Trung đoàn 66, Đại đoàn 304.
Từ tháng 9.1954 đến tháng 3.1955, ông học bổ túc quân chính trung cấp khóa I.
Từ tháng 3.1955 đến tháng 3.1958, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ Trưởng Tiểu ban Tổ chức Trung đoàn, Chính trị viên Tiểu đoàn; Phó chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 66, Sư đoàn 304.
Tháng 4.1958, ông là học viên Trường Chính trị trung cao.
Từ tháng 6.1961 đến năm 1966, ông lần lượt giữ các chức vụ Phó ban Cán bộ rồi Trưởng ban Tổ chức, Phòng Chính trị Sư đoàn 304; sau đó làm Phó chính uỷ rồi Chính uỷ Trung đoàn 9, Sư đoàn 304, Quân khu Hữu Ngạn, Đảng uỷ viên Sư đoàn.
Tháng 7.1967, ông vào chiến trường Trị Thiên chiến đấu, làm Chính uỷ Trung đoàn 9. Tháng 1.1968, ông kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 9.
Năm 1970, ông làm Trưởng phòng Tổ chức Quân khu Trị Thiên.
Từ tháng 10.1971 đến tháng 2.1974, ông làm Phó chủ nhiệm chính trị Quân khu Trị Thiên.
Tháng 3.1974, ông làm Chủ nhiệm chính trị Quân khu Trị Thiên (sau là Quân đoàn 2), Đảng ủy viên Quân đoàn.
Tháng 2.1978, ông làm Chủ nhiệm chính trị rồi Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị Quân khu 9.
Tháng 8.1980, ông làm Phó tư lệnh về chính trị kiêm Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 9, được bầu vào Thường vụ rồi Phó bí thư Đảng ủy Quân khu.
Tháng 3.1983, ông giữ chức Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 9.
Tháng 4.1984, ông làm Chủ nhiệm Chính trị Bộ Tư lệnh 719, ông được thăng quân hàm thiếu tướng.
Năm 1986, ông làm Phó tư lệnh về chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị Bộ Tư lệnh 719, làm Uỷ viên rồi Phó bí thư Ban cán sự Bộ Tư lệnh 719.
Tháng 6.1988, ông được thăng quân hàm trung tướng.
Tháng 8.1988, ông làm Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (phụ trách khối tổ chức, cán bộ, bảo vệ).
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6.1991), ông được bầu vào Ban Chấp hành T.Ư Đảng, phân công làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự T.Ư (nay là Quân ủy T.Ư).
Tại Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư lần thứ 3, khóa VII, ông được bầu vào Ban Bí thư T.Ư Đảng.
Tháng 6.1992, ông được thăng quân hàm thượng tướng.
Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Ban Chấp hành T.Ư khóa VII (tháng 1.1994), ông được bầu vào Bộ Chính trị.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6.1996), ông tiếp tục được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành T.Ư Đảng và được Ban Chấp hành T.Ư bầu vào Bộ Chính trị, được cử tham gia Thường vụ Bộ Chính trị, phân công làm Thường trực Bộ Chính trị kiêm Trưởng ban Bảo vệ Chính trị nội bộ T.Ư.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư lần thứ tư, khóa VIII (tháng 12.1997), ông được bầu làm Tổng bí thư Ban Chấp hành T.Ư Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Đảng ủy Quân sự T.Ư (nay là Quân ủy T.Ư).
Ông là Ủy viên Ban Chấp hành T.Ư Đảng các khóa VII, VIII; Bí thư T.Ư Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa VII, VIII; Ủy viên Thường vụ, Thường trực Bộ Chính trị khoá VIII; Tổng Bí thư Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa VIII (từ tháng 12.1997 đến tháng 4.2001); đại biểu Quốc hội các khóa IX, X.
Tháng 10.2006, ông được nghỉ công tác theo chế độ.
Do có nhiều công lao và thành tích xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, ông được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.
|
Bình luận (0)