(TNO) Ngày 29.4.1975, Trường Sa là đảo cuối cùng trong tổng số 5 đảo (Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa) trong toàn quần đảo Trường Sa, được bộ đội Hải quân Việt Nam tiếp quản từ Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Chăm sóc mộ liệt sĩ hy sinh trên quần đảo Trường Sa, những năm đầu 80 - Ảnh: Nguyễn Viết Thái
|
Ít ai biết, để có được một Trường Sa với 33 điểm đóng quân như bây giờ, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống, hàng nghìn người mang thương tật suốt đời và mồ hôi, công sức hàng vạn người, chan mặn từng mẩu san hô, giọt nước Trường Sa.
Thượng tá Lê Văn An có đến 17 năm (tháng 4.1975 đến tháng 12.1992) lần lượt làm đảo trưởng các đảo Trường Sa, Song Tử Tây, Sinh Tồn, Sơn Ca. Ông kể: “Đời sống bộ đội Trường Sa chỉ được thực sự quan tâm sau khi xảy ra sự kiện 14.3.1988, chứ trước đấy, nhớ lại cuộc sống của anh em, vẫn thấy đau lòng!”.
Nồi cháo rau đau đớn
Câu chuyện của tôi và Thượng tá An cứ bập bõm trong tiếng xe máy nẹt pô ầm ĩ cổng chợ Mỹ Ca (Cam Ranh) buổi chiều hừng hực nắng và nhất là tiếng chép miệng “khổ lắm” liên tục trong hồi ức.
Thượng tá Lê Văn An khi nghỉ hưu là chỉ huy cụm I Trường Sa, nguyên đảo trưởng các
đảo Song Tử Tây, Sinh Tồn, Sơn Ca, Trường Sa từ 4.1975-12.1992 - Ảnh: Mai Thanh Hải
|
Ông bảo: “Hồi ấy khốn khổ vì thèm rau xanh. Sống chết vì từng cọng rau” và kể: Hồi làm đảo trưởng Sơn Ca, có 1 cậu tiểu đội trưởng pháo 37 bị ốm mấy tháng chỉ vì thèm rau xanh. Mãi tàu không ra, chiến sĩ liều hái rau muống biển mang về nấu trộm, tuy thừa biết rau này rất độc và cả đảo chẳng ai dám động đến. Anh em trong đơn vị nói mãi không nghe, phải chạy lên báo đảo trưởng.
|
|
|
Nói thì không ai tin nhưng hồi ấy đi đảo, bộ đội chỉ dám mang theo muối vừng, cá cơm khô để ăn dần. Thịt hộp cũng có nhưng để lâu trong điều kiện khắc nghiệt, khi mở ra đều thiu thối nhưng vẫn phải ăn, nên nhiều anh ngửi mùi thịt hộp là nôn ói!
|
|
|
Thượng tá Lương Văn An
trầm ngâm kể
|
|
|
Ông An vội chạy xuống, đá văng nồi cháo rau đang nấu dở, nhỏ nhẹ bảo cậu chiến sĩ: “Giờ mày có thương tao không? Mày chết ở đây thì bố mẹ mày và chúng tao đều khổ!”.
Cậu chiến sĩ vâng lời đi ngủ. Nửa tiếng sau, anh em lại hổn hển chạy lên báo đảo trưởng An: “Thủ trưởng ơi!. Nó lại hái rau chui vào hầm nấu trộm ăn và say vật rồi!”.
Ông An chạy lên Trạm xá, bác sĩ Quân y tên Lượng rầu rĩ: “Chắc không cứu được!” khiến ông An quát: “Hái nắm rau muống biển đem giã lấy nước cho chó uống xem sao. Phải cố cứu lấy nó!”, nhưng nắm rau “thí nghiệm” đang giã, cậu chiến sĩ đã trút hơi thở cuối cùng. “Giờ nghĩ lại, vẫn thấy xót và khổ quá!” - Thượng tá An bật khóc.
Cũng đau đáu về những ngày đầu tháng 5.1975, Thiếu tá Trần Văn Thế (nguyên Chủ nhiệm Công binh Lữ đoàn 146, Vùng 4 Hải quân) kể: “Cả lính đảo lẫn công binh đều mắc bệnh táo bón do thiếu rau xanh, có những thời điểm cả đơn vị nằm liệt do ăn đồ khô, đồ hộp nhiều!” và nhớ lại: Duy nhất trên quần đảo Trường Sa hồi ấy có mấy bụi sâm đất, do những người lính của chế độ cũ trồng ngoài sân nhà khí tượng. Mấy bụi cây được bảo vệ theo chế độ nghiêm ngặt, chỉ những lúc đảo có nhiều người ốm hoặc dịp lễ tết, cả Cấp ủy - Ban Chỉ huy mới họp bàn, quyết định “thu hoạch”, nấu nước chia thành ca nhỏ cho từng người.
Thời điểm thiếu rau xanh, chất tươi nghiêm trọng, có đảo quân số nằm bẹp gần hết, Đại tá Cao Ánh Đăng, Phó Tư lệnh Vùng 4 Hải quân, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 bảo vệ Trường Sa (1977-1982), phải lọ mọ lên Đà Lạt, nhờ mối quan hệ của bạn chiến đấu cũ đang giữ chức Chỉ huy trưởng BCHQS tỉnh, xin nông dân hái rau tặng riêng bộ đội Trường Sa.
Quyết định của BTL Hải quân bổ nhiệm Thượng úy, Tiểu đoàn phó Lê Văn An làm Chỉ huy trưởng đảo Sinh Tồn, tháng 9.1977 - Ảnh: Mai Thanh Hải
|
“Xin được mấy xe rau định mang ra đảo thì Hải quân Liên Xô (hồi ấy còn đóng quân ở Cam Ranh) nhìn thấy, lại đề nghị Chỉ huy Vùng can thiệp, nhường cho họ ít. Thế là số chở ra đảo, vừa héo úa vừa chả được bao nhiêu!” – ông Đăng cười.
Nhắc lại chuyện thiếu chất tươi ngoài đảo, Thượng tá Lê Văn An trầm ngâm: “Nói thì không ai tin nhưng hồi ấy đi đảo, bộ đội chỉ dám mang theo muối vừng, cá cơm khô để ăn dần. Thịt hộp cũng có nhưng để lâu trong điều kiện khắc nghiệt, khi mở ra đều thiu thối nhưng vẫn phải ăn, nên nhiều anh ngửi mùi thịt hộp là nôn ói!”.
Tư lệnh Hải quân bổ nhiệm Đại úy Lê Văn An, Chỉ huy trưởng đảo Sơn Ca sang làm Tiểu đoàn trưởng - Chỉ huy trưởng đảo Song Tử Tây, tháng 10.1983 - Ảnh: Mai Thanh Hải
|
“Có anh em bất mãn, đem cháo thịt đổ vào cửa Hội trường. Tôi gọi lên bảo: Mày mang đổ vào cửa phòng tao đi, tao sẽ hốt ăn ngay. Tao làm đảo trưởng đấy, nhưng vật chất thực tế nó vậy, xuất ra mà lỡ sau này đánh nhau, chúng mày bị thương thì lấy cái gì ăn?” - Ông An mấp máy: “Bố nuôi con mà giữ không cho con ăn?”.
Thực tế Trường Sa những năm thập niên 70-80, do cơ sở vật chất thiếu thốn, một số đảo có điều kiện đánh bắt hải sản, nhưng gia vị chế biến rút cục cũng chỉ là đồ hộp (nước me hộp, dứa hộp...) và ăn mãi có khi còn ảnh hưởng đến tiêu hóa, nên nhu cầu rau xanh với bộ đội luôn là bức thiết.
|
|
|
Đánh nhau suốt bao năm, giờ còn sống, đứa nào chả muốn về nhà. Nhưng bỏ về hết, thì ai trông đảo ngoài kia?
|
|
|
Thiếu tướng Giáp Văn Cương
|
|
|
Thượng tá Lê Văn An hồi tưởng: đợt nào tàu ra, có anh em quen biết thì xin được ít đậu xanh và cả đảo hì hục bốc cát, đắp bao tải, tưới nước, cho vệ binh khoác AK canh 2-3 ngày mới đến kỳ thu hoạch... giá đỗ. 1 bơ đậu được cả thúng giá đỗ, đưa bếp vào nấu canh cho toàn đảo và anh em chia nhau từng cọng giá đỗ bé tí, teo tóp.
Nhặt trứng chim ăn thay thịt
Đại tá Phạm Công Phán là Lữ đoàn trưởng 146 (giai đoạn 1982 – 1987, giờ đang nghỉ hưu ở Đông Hưng, Thái Bình), thời điểm 30.4.1975 giữ chức Đại úy Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 14 (Trung đoàn 68, Sư đoàn 304), được cử đi học sĩ quan ngay sau ngày thống nhất và kết thúc khóa học (4.1978) về làm Trung đoàn phó Trung đoàn 146.
|
Chim biển đông đúc trên các đảo Trường Sa và được bộ đội coi như nguồn cung cấp
thực phẩm tươi tự nhiên - Ảnh:M.T.H chụp lại
|
“Hồi ấy, tàu ra đảo cực khó khăn, nên có những đảo cả năm mới có 1 chuyến tàu ra tiếp tế - thay quân. Lương thực thực phẩm đưa ra năm nay, nhưng sang năm mới được ăn vì để dự trữ chiến đấu, nên gạo mốc, thịt hộp ghi thời hạn sử dụng 3 tháng nhưng chỉ 1 tháng là thối!” – Đại tá Phán bắt đầu câu chuyện về Trường Sa những năm sau khi đất nước thống nhất.
Chỉ huy trưởng đảo Sơn Ca Lê Văn An (bìa phải) - Ảnh: Mai Thanh Hải chụp lại
|
Ông Phán hồi tưởng: đầu tháng 4.1978, vừa chân ướt chân ráo về Hải quân, ông đã nhận lệnh xuống tàu HQ-681, cùng phân đội 19 người bí mật ra đóng giữ đảo Trường Sa Đông. Giữa tháng, khi có lực lượng thay thế, ông Phán lại theo tàu di chuyển sang Đá Tây ứng trực, đợi khi tàu chở Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương tới nơi, mới ghép đoàn tại đảo Trường Sa.
Bộ đội Trường Sa giăng lưới bắt cá cải thiện bữa ăn, những năm đầu thập kỷ 80
- Ảnh: Nguyễn Viết Thái
|
Bước chân lên đảo, ấn tượng đầu tiên của ông là rợp trời chim hải âu, sau đó mới đến chuyện tìm mọi cách bắt chim - nhặt trứng cải thiện bữa ăn của bộ đội đảo, Công binh Hải quân. Thấy bộ đội nhặt cả nghìn quả trứng chim, lấy nguyên lòng đỏ phơi khô làm thức ăn lâu dài và mỗi ngày mấy lần gõ kẻng làm chim sợ hãi bay tứ tán.
Ông Phán tổ chức họp, cấm bộ đội đánh kẻng và nghịch chim, tuy thừa biết lệnh cấm không thể triệt để bởi bữa ăn hằng ngày, hãn hữu lắm mới có miếng thịt tươi tiếp tế.
Giá đỗ tự làm và sữa hộp kém chất lượng do thời tiết khắc nghiệt, ở đảo Trường Sa,
chụp tháng 4.2013 - Ảnh:M.T.H
Vườn rau trên đảo Trường Sa Đông bị táp lá, không lớn nổi do gió bão, nước mặn;
hình chụp tháng 12.2013 - Ảnh:M.T.H
Các cây không sống nổi, cho dù đã đưa vào hố bắn tránh gió; chụp tại đảo Trường Sa Đông, tháng 4.2014
Bữa cơm của bộ đội Trường Sa năm 2015, vẫn chủ yếu là đồ hộp, đồ khô mang từ đất liền ra
- Ảnh: Mai Thanh Hải
Không có thịt tươi, nên bộ đội Trường Sa phải chế biến thịt hộp thành nhiều món như:
luộc, kho, xào...để đảm bảo nuốt được, có dinh dưỡng hằng ngày - Ảnh: Mai Thanh Hải
|
“Lính rừng” thành lính biển
Những người lính đầu tiên ra giữ Trường Sa không phải là lực lượng Hải quân mà chính là Tiểu đoàn 4 Bộ binh của Quân khu 5, Đơn vị đã quen tác chiến trên rừng.
Ít người biết: 14 giờ ngày 27.5.1975, tại căn cứ Thành Tuy Hạ, Trung đoàn 46 được bí mật bàn giao từ Quân đoàn II sang Bộ tư lệnh Hải quân, ngay sau đó là cuộc chuyển quân ra Cam Ranh, tổ chức thành Lữ đoàn Hải Quân đánh bộ 126, làm nhiệm vụ “vừa cơ động chiến đấu vừa phòng thủ Trường Sa” với thành phần hỗn hợp là: Trung đoàn 46, Tiểu đoàn 4 Đặc công Hải quân, Tiểu đoàn 4 bộ binh (thuộc Sư đoàn 2, Quân khu V).
Ngày 19.8.1977, đơn vị chuyên trách bảo vệ Trường Sa được thành lập với phiên hiệu là Trung đoàn 175, thuộc Đảng ủy Bộ tư lệnh Hải quân. Tuy nhiên, những người nguyên là “lính rừng”, tiếc phiên hiệu 46 nên đã đề xuất đổi tên đơn vị là 146 và đầu tháng 5.1978, Trung đoàn 146 chính thức được tách ra khỏi Lữ đoàn 126, thành đơn vị độc lập và đến nay là Lữ đoàn 146 thuộc BTL Vùng 4 Hải quân.
|
Bình luận (0)