Nói về lịch sử men ngọc, từ thế kỷ 10 đã nổi tiếng phương Bắc, với những mỹ từ miêu tả nước men đẹp đến mức “vũ quá thiên thanh” (trời xanh sau cơn mưa), thậm chí những mảnh - miếng của dòng đồ này còn được sánh ngang với vàng qua câu nói: “Phiến Sài trị thiên kim” (mảnh Sài diêu đáng giá nghìn vàng).
Âu gốm thời Trần với tạo hình chắc khỏe và trang trí kỳ lân bằng kỹ thuật in khuôn |
Hiếu Trần |
Cũng ở thời này, người Cao Ly ((Triều Tiên)) sang Trung Hoa học nghề chế tác gốm men ngọc, cho ra dòng gốm “Cao Ly bí sắc”. Năm 1233, nghệ nhân Kato (Gia Đằng) người Nhật Bản cũng đến Trung Hoa học làm gốm men ngọc. Điều đó cho thấy gốm men ngọc ngày càng trở nên thịnh hành trong xã hội đương thời bởi sắc đẹp quyến rũ của nó.
Đại Việt khi ấy cũng chế tác gốm men ngọc, vẻ đẹp mượt mà và duyên dáng của lối tạo hình cùng hoa văn, họa tiết ẩn hiện dưới lớp men huyền diệu đã gây cho hậu thế ít nhiều nhầm lẫn với suy nghĩ sản phẩm men ngọc tìm được qua các di chỉ ở Việt Nam hẳn phải đến từ các lò gốm phương Bắc.
Dựa trên những hiện vật sưu tầm, đào, vớt trên lãnh thổ Việt Nam, cho thấy sự “nhầm lẫn” gốm men ngọc Đại Việt và gốm sứ men ngọc du nhập là có cơ sở. Nhiều bãi đào ở vùng Thanh Hóa, khi săn - rà cổ vật, tìm được khá nhiều đồ men ngọc (celadone) mang niên đại từ thế kỷ 10 - 13, thuộc thời Tống (960 - 1279). Nguyên do có những đợt di dân, chạy loạn của người Bắc Tống khi sang Việt Nam, họ mang theo nghề làm gốm sứ, lập lò sản xuất, đồng thời cũng “xách tay” theo những sản phẩm từ cố quốc. Tiếp sau đó là những tàu buôn cập bến Việt với thương cảng trung chuyển như Phố Hiến, bến Vân Đồn… Do vậy việc xuất hiện đồ men ngọc qua con đường mậu dịch trở nên phổ biến.
Âu gốm thời Trần với trang trí hàng đinh cùng kỹ thuật khắc que đồ án hoa dây |
Hiếu Trần |
Ở đất Việt, nghề gốm tráng men phát triển mạnh từ thời Lý, khi tiếp biến qua thời Trần, có thêm sự du nhập thợ thuyền thời Tống với kỹ thuật làm gốm men ngọc. Thợ thủ công Việt cũng cảm thụ được nghề, và gốm men ngọc trở thành một dòng gốm độc đáo, nổi trội bên cạnh men hoa nâu, men trắng ngà, men hoa bưởi, men giấy, men kính…
Để ra được màu men ngọc, là sự kết hợp khoáng vật tạo đá silicat, cùng một số khoáng chất hàm lượng oxit sắt cao, tạo thành men tráng lên cốt thai gốm, sau đó đem nung đều lửa ở nhiệt độ thích hợp và qua quá trình hoàn nguyên sẽ cho ra màu xanh ngọc. Riêng với gốm men ngọc Đại Việt, có thể thấy một ngôn ngữ thể hiện dị biệt, cùng là một màu men, nhưng khi qua lửa lò, tạo nên đủ các sắc độ, từ xanh nhạt, xanh đông thanh, xanh lá, xanh úa, xanh nước dưa, xanh da táo, vàng úa, vàng tươi, vàng xám… cộng với kỹ thuật phủ men dày mỏng, tạo hiệu ứng kỳ lạ, mang cá tính riêng của gốm men ngọc thời Trần.
Chỉ là sự du nhập, hòa nhập, phát triển, nhưng hạn chế về kinh nghiệm nghề, men thuốc, lửa lò, thật khó để so sánh gốm men ngọc Đại Việt với những lò sản xuất danh tiếng thuộc hàng đại danh diêu thời Tống như: Nhữ, Quan, Ca, Quân, Định và Long Tuyền Diêu, hay các dòng “Cao Ly bí sắc”, cho đến men ngọc các nước Hàn Quốc, Nhật Bản… Tất nhiên việc so sánh gốm men ngọc Đại Việt với những dòng sứ men ngọc bên ngoài, thật khập khiễng, bởi số lượng hiện vật gốm men ngọc Đại Việt đủ đạt chuẩn để so sánh, thực cũng rất hạn hữu.
Chiếc âu hiếm hoi của gốm cổ Đại Việt với kỹ thuật và sắc màu có thể so sánh cùng đồ sứ men ngọc đương thời |
Phong An |
Cho đến khi giới sưu tầm và khảo cổ tìm được những hiện vật gốm men ngọc có khoản thức ghi rõ “Thiên Trường phủ chế” (chế tác tại phủ Thiên Trường) đã xác định dòng gốm men ngọc đa chủng loại như chén, bát chân cao, ấm quả dưa, ấm rượu, hũ, liễn… phần đa có xuất xứ từ Nam Định, là đất phủ Thiên Trường dưới thời Trần. So sánh chất lượng tạo hình, kỹ thuật chế tác, sản phẩm gốm men ngọc từ phủ Thiên Trường, một phần khác ở vùng Thanh Hóa, Thăng Long, đều có những đặc sắc và phong cách riêng, trong số ấy có nhiều hiện vật đủ so sánh ngang hàng các dòng đồ sứ men ngọc cùng thời đại.
Gốm men ngọc chế tác thời Đại Việt chủ yếu kích cỡ nhỏ với đĩa, âu, chén, tước, ang, liễn, hũ, ấm… mang nhiều nét tạo hình tương đồng với đồ sứ Tống, Nguyên, Minh… Kỹ thuật khắc chìm, đắp nổi, in khuôn cũng được ứng dụng trong chế tác. Một số âu có bốn linh thú trang trí vòng quanh, hẳn là kỳ lân với chi tiết dễ nhận là móng guốc cùng bờm, sừng, râu… thể hiện tư thế dũng mãnh, oai vệ. Ở thời kỳ này, hình tượng linh thú Việt là nghê khá phổ biến, việc đưa kỳ lân vào gốm phần nào cho thấy mối giao thương, liên kết, hội nhập với bên ngoài được chú trọng. Sản phẩm gốm men ngọc Đại Việt chế tác theo kiểu thức này, vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước nhưng cũng nhắm nhiều đến khả năng phục vụ giao thương, xuất khẩu.
(còn tiếp)
Bình luận (0)