Ùn tắc, ô nhiễm gia tăng nhanh theo tốc độ đô thị hóa

01/06/2020 11:35 GMT+7

Trên thế giới , tỷ lệ dân số thành thị đã đạt 54,8% - tức là quá nửa dân số thế giới đã sống ở khu vực thành thị.

Tăng trụ sở, bộ máy từ đô thị hóa

Hơn 1/3 tổng số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có trên 3/4 dân số ở thành thị, trong số đó có 1/10 có tỷ lệ dân số thành thị đạt trên 90%, đặc biệt có gần 10 nước và vùng lãnh thổ đạt 100%.
Ở Việt Nam, tỷ lệ dân số thành thị từ mức rất thấp, 7,61% vào năm 1921 lên đến 34,68% vào năm 2019. Không chỉ tăng lên về tỷ lệ dân số thành thị, mà còn thể hiện ở việc “cao lên”, “sâu xuống” và “rộng ra” của các thành phố, thị xã, thị trấn, ở sự tăng lên của số trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi. Đặc biệt, các “chợ lao động” cách đây một vài chục năm hiện đã gần như không còn. Người gồng gánh bán hàng rong ở khu vực thành thị cũng giảm. Nhiều đoạn sông rạch ở thành phố đã được ngầm hóa, nhiều đoạn đường trên cao, đường hầm, cầu vượt... được hình thành. Nhiều nhà cao tầng được xây dựng…
Việc tăng lên và tăng tương đối nhanh của tỷ lệ dân số thành thị là do nhiều yếu tố.
Có yếu tố do sự mở rộng, thành lập các thành phố, thị xã, thị trấn. So với năm 2000, số đơn vị hành chính thuộc khu vực thành thị đã tăng lên. Cụ thể, số thành phố trực thuộc trung ương tăng 1 (5 so với 4); số thành phố trực thuộc tỉnh tăng 51 (là 71 so với 20, do số thị xã nâng cấp lên thành phố); số quận tăng 16 (là 49 so với 33, do số huyện chuyển thành thị xã); số thị xã giảm 14, do nâng cấp lên thành phố thuộc tỉnh; số huyện tăng 38 (từ 507 lên 545, do tách huyện); số phường tăng 578 (từ 1018 lên 1596, do nâng cấp và thành phường mới); số thị trấn tăng 34 (từ 563 lên 607, do thành lập mới). Như vậy, số đơn vị hành chính phường và thị trấn tăng 612. Tuy là một trong những yếu tố góp phần làm tăng tỷ lệ dân số thành thị, nhưng việc tăng số đơn vị hành chính cũng là một trong những yếu tố làm tăng trụ sở, tổ chức, bộ máy, biên chế và đây là một trong những công việc tuy bắt đầu thực hiện, nhưng cấp bách mà Đảng và Nhà nước phải quyết liệt giải quyết hơn nữa (Trung Quốc có dân số đông gấp 15 lần, Indonesia có dân số đông gấp trên 3 lần, nhưng số tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương chưa bằng một nửa của Việt Nam).
Có yếu tố quan trọng đáng khuyến khích là ở nông thôn đã có nhiều doanh nghiệp được thành lập, bao gồm các doanh nghiệp do bản thân người ở khu vực nông thôn thành lập và các doanh nghiệp do người ở khu vực thành thị đưa vốn về thành lập. Khi các doanh nghiệp này được thành lập, thì số người hình thành các “chợ lao động” ở thành phố bị giảm hẳn, đồng thời một số thị tứ, thị trấn được nâng cấp thành thị trấn, thị xã. Với cách này, đã hình thành khu đô thị mới theo phương thức “ly nông bất ly hương”. Tỷ trọng số lao động thuộc nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản giảm nhanh (từ 73% năm 1990 xuống còn 34,7% năm 2019); tỷ trọng số lao động thuộc 2 nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng (tương ứng từ 27% lên 65,3%).
Tuy tỷ lệ dân số thành thị của Việt Nam tăng, nhưng vẫn còn rất thấp so với tỷ lệ chung của thế giới (54,8%), so với nhiều nước trong khu vực (Brunei 77,3%, Malaysia 75,4%, Indonesia 54,7%, Thái Lan 49,2%, Philippines 46,7%) hay so với Trung Quốc 58%, CHDCND Triều Tiên 61,7%, Mông Cổ 68,4%...

Ùn tắc, ô nhiễm gia tăng

Tỷ lệ dân số thành thị tăng và sẽ còn tăng nhanh hơn nữa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa. Nhưng đã đến lúc cần quan tâm hơn nữa đến chất lượng đô thị hóa. Chất lượng đô thị hóa được thể hiện ở nhiều mặt.
Rõ nhất là giảm thiểu sự ùn tắc ở khu vực thành thị. Khi dân số thành thị đông hơn, phương tiện đi lại nhiều hơn thì ùn tắc giao thông khó tránh khỏi. Để hạn chế ách tắc, cần hạn chế phát triển phương tiện vận chuyển cá nhân, cần phát triển nhanh giao thông công cộng, trong đó có xe buýt, đường trên cao; đối với những đô thị lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh thì cần phát triển xe điện ngầm, bởi không có tàu điện ngầm thì khó mà giải quyết được tình trạng ách tắc giao thông. Hạn chế việc tập trung dân số ở nội thành, đưa các doanh nghiệp, các trường đại học, các bệnh viện, các cơ quan bộ/ngành ra ngoại thành; hạn chế việc xây dựng các chung cư cao tầng trong nội thành để giảm bớt mật độ đi lại trong nội thành. Mở rộng, nâng cấp đường giao thông, phát triển các cầu vượt ở các ngã tư, nhất là các lối vào nội đô. Đối với những khu vực đô thị mới, cần bảo đảm các tỷ lệ về xây dựng, các tỷ lệ dành cho giao thông, công viên, cây xanh.
Cùng với việc giảm ùn tắc là giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở khu vực thành thị từ nguồn nước, không khí và rác thải. Trong phạm vi cả nước, số đô thị có công trình xử lý chất thải rắn đạt tiêu chuẩn quy định mới đạt 276/819, có công trình xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn quy định mới đạt 61/819.
Việc khử màu nước đen, mùi hôi thối của các kênh, mương đã có chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn chưa được giải quyết cơ bản ở một số đô thị. Một mặt cần có hệ thống cống hộp để thoát nước thải riêng, mặt khác phải có giải pháp trị tận gốc (xử lý ngay từ cơ sở sản xuất kinh doanh trước khi cho thoát ra hệ thống thoát nước thải chung). Việc xử lý nguồn năng lượng sạch, năng lượng quy chuẩn, tăng phương tiện sử dụng điện, giảm phương tiện chạy than, xăng, dầu...
Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.