Tuy nhiên, chiến lược quân sự trên đã lộ ra những điểm yếu khi tham gia vào xung đột kéo dài, mà chiến sự Ukraine là minh chứng cụ thể. Cựu thiếu tướng quân đội Úc Mick Ryan nhận định rằng “Chúng tôi đã không dự trữ vũ khí cho kiểu xung đột kéo dài như vậy, trong khi Nga và Trung Quốc thì có”.
Trong thế kỷ 20, Mỹ nhận thấy sẽ không thể so bì với Liên Xô về quy mô sản xuất vũ khí hàng loạt, do đó Washington tập trung đưa những công nghệ tốt nhất vào từng sản phẩm.
Ông George Barros, nhà nghiên cứu về Nga tại Viện Nghiên cứu Chiến tranh (ISW) có trụ sở tại Mỹ, nhận định với học thuyết quân sự trên, người Mỹ đã cho ra đời những vũ khí như xe tăng Abrams - có hỏa lực và giáp dày hơn mẫu xe tăng dòng T của Liên Xô, vốn được sản xuất với số lượng lớn.
Cách tiếp cận của phương Tây với vũ khí công nghệ cao đã chứng minh hiệu quả trong một số cuộc xung đột của hình thái chiến tranh hiện đại, điển hình là chiến dịch Bão táp Sa mạc chống lại Iraq năm 1990 - 1991.
Song, mặt trái của cách tiếp cận ưu tiên số lượng hơn chất lượng sẽ lộ rõ khi phải đối đầu với những đối thủ có tiềm lực quân sự mạnh và có thể kéo dài xung đột. Trong xung đột tại Ukraine, ở nhiều thời điểm Kyiv đã phải cân nhắc mỗi khi định dùng tên lửa phòng không đánh chặn máy bay không người lái (UAV) của Nga.
Bình luận (0)