Nghĩ đi nghĩ lại, với xã Bình Dương ba lần anh hùng của tỉnh Quảng Nam trong chiến tranh, thì “Ý chí quyết sống” vì mảnh đất quê hương còn cao hơn cả “Ý chí quyết thắng”. Bởi ở đó, đã sống được là thắng. Không có lựa chọn khác, và tuyệt đối không có “sống quỳ”, không bao giờ biết đầu hàng.
Tôi đã đọc bài viết rất sâu sắc của anh Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Bí thư Quảng Nam, và tôi muốn trích ra đây một đoạn ngắn để chúng ta có hình dung tổng thể về xã Bình Dương trong chiến tranh: “Với Bình Dương, sống dám chết là cái sống hiên ngang mà muôn đời vẫn sẽ mãi âm vang, óng ánh. Chết cho sự sống là cái chết bất tử. Cái chết đã làm cho sự sống trở nên ý nghĩa. Chết là vì sự sống. Đó là cái chết bắt đầu cho sự sống.
Một xã nhỏ, mà tập trung nhiều nhất là một thôn nhỏ, Bàu Bính lẫy lừng, tính chưa đầy đủ mà Bình Dương đã có đến 350 Mẹ VN anh hùng và 1347 liệt sĩ, trực tiếp góp phần quan trọng để làm nên truyền thống vẻ vang của vùng đất Quảng Nam trung dũng kiên cường có số Mẹ VN anh hùng nhiều nhất nước - với 15. 298 người, chưa kể hàng nghìn mẹ ở Đà Nẵng vốn cũng là Đất Quảng cùng một chiếc nôi văn hóa cội nguồn”.
Tôi có may mắn, trong mùa hè năm 1983 được cùng các nhà văn ở Hội nhà văn Việt Nam đi thực tế ở địa bàn tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng hồi đó. Chuyến đi thực tế trải dài và rộng ở nhiều huyện trong tỉnh, nhưng vẫn có những điểm nhấn mà các nhà văn nhất thiết phải đến. Để thấy nhân dân mình đã sống, chiến đấu, hy sinh và quyết sống còn như thế nào. Xã Bình Dương của H.Thăng Bình chính là một trong mấy điểm nhấn ấy mà chúng tôi đã được đến. Chuyến đi thực tế do nhà văn Nguyên Ngọc lúc ấy là Bí thư Đảng đoàn Hội nhà văn VN đứng ra tổ chức, được sự ủng hộ hết mình của lãnh đạo tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Nhóm nhà văn chúng tôi gồm nhà thơ Xuân Diệu, nhà văn Đoàn Giỏi, nhà thơ Anh Thơ, nhà phê bình - lý luận Từ Sơn và nhà văn Trung Trung Đỉnh đã được về Bình Dương trong mùa hè nắng nung cát cháy đó.
Bao nhiêu năm đã qua rồi, mà ký ức về Bình Dương vẫn còn khá nguyên vẹn trong tôi. Đó là một ký ức vừa nặng trĩu, vừa dữ dội, lại vừa chói sáng, cứ như chúng tôi đang đi về một vùng đất hoàn toàn khác lạ, dù vùng cát trắng Bình Dương vẫn thân gần với những người đã từng qua chiến tranh, từng đi kháng chiến như chúng tôi.
Nhớ những buổi trưa hè cả nhóm chúng tôi đi bộ từ thôn này sang thôn khác trong xã, tìm đến các nhà dân, các gia đình có người từng đi du kích để thăm và hỏi chuyện. Những chuyện hồi chiến tranh do người Bình Dương kể một cách thật thà khiến chúng tôi như choáng váng. Vì ít ai dám nghĩ một xã vùng cát trắng nghèo khổ như thế lại phải chịu đựng sự hủy diệt kinh khủng đến như thế. Điều lạ lùng nhất, là trong đau thương, người Bình Dương vẫn đứng vững, du kích vẫn chiến đấu, những người mẹ người chị vẫn bảo bọc và tiếp sức cho chồng con mình. Rồi những hy sinh vẫn ập đến hàng ngày.
Tôi đã từng, sau chiến tranh, vào tháng 3.1976, tới vùng quê Sơn Mỹ, ở hàng tháng với bà con mới từ các vùng ấp chiến lược hay lẩn lút trong những “vùng oanh kích tự do” trở về. Bao nhiêu là khổ cực, vất vả, ký ức chiến tranh, ký ức về cuộc thảm sát 504 người dân Sơn Mỹ tháng 3.1968 cứ trở về bất cứ lúc nào. Trong trường ca “Trẻ con ở Sơn Mỹ” tôi viết sau đó một năm, có đoạn về những người du kích Sơn Mỹ, mà tôi thấy trùng hợp với những người du kích ở Bình Dương:
“trải qua rét buốt lửa nồng
gia tài còn vẹn tấm lòng ấy thôi
những người mọc thẳng giữa đời
như rừng dương chắn ngang trời cát bay
những người bền tựa rễ cây
luồn trong đất đá cánh tay trụi trần
họ dò tới những mạch ngầm bí mật
đã nuôi được xương rồng trên trảng cát
với xương rồng, họ tìm cách nở hoa”
(Trường ca “Trẻ con ở Sơn Mỹ”)
Vâng, sau tất cả những hy sinh mất mát đau thương, thì cốt lõi vẫn là “với xương rồng, họ tìm cách nở hoa”, phải nở hoa bằng bất cứ giá nào. Họ đã đi tới ngày chiến thắng, ngày hòa bình thống nhất bằng chính lời thề ấy.
Hôm nay, sau tất cả mọi điều, thì dự án “Vườn Mẹ” mà anh Phan Đức Nhạn, một người con Bình Dương, một người có cha là Chủ tịch H.Thăng Bình thời kháng chiến chống Pháp, có mẹ là liệt sĩ và là Mẹ VN anh hùng, đã quyết theo đuổi dự án này từ nhiều năm nay. Anh Phan Đức Nhạn đã thuyết minh cho tôi nghe, rằng thì nơi ấy, nơi đã ba lần được phong anh hùng trong chiến tranh, sẽ có bao nhiêu trái quả ngọt lành, bao nhiêu rau xanh mướt mát từ bàn tay mẹ, mà mỗi luống hành, cọng rau, quả bí, trái bầu… sẽ mang nặng lòng biết ơn với mẹ, được chưng cất từ lòng mẹ, cùng bao vất vả lo toan của mỗi người dân Bình Dương hôm nay.
“Vườn Mẹ”, còn một ý tưởng nào yêu thương hơn, còn lòng biết ơn nào sâu nặng hơn khi những đứa con hợp sức vun xới ngay trên mảnh đất Bình Dương đau thương và anh hùng này một khu vườn, không phải là “Vườn Thượng uyển”, mà là “Vườn Mẹ” với rau quả, với xương rồng nở hoa, với những bờ dương ngăn chắn cát, với những hồ chứa nước cho mùa khô, với tất cả những gì mà mẹ chúng ta, những bà mẹ anh hùng đã dày công vun xới ngay từ những tháng ngày khốc liệt nhất trong chiến tranh.
Đó như một bảo tàng của lòng biết ơn, lại như một quyển sách xanh mà mọi người có thể lật giở từng trang để không bao giờ lãng quên quá khứ, không bao giờ nguôi nhớ những người mẹ đã hy sinh tất cả, hy sinh cái quý giá nhất của đời mình là những đứa con, là người chồng đầu gối tay ấp, những người mẹ đã bất đắc dĩ thành anh hùng vì đã nếm trải quá nhiều đau thương mất mát.
Nhưng như những cây xương rồng trên cát, người Bình Dương đã quyết “nở hoa”, đã quyết sống. Đó là một ý chí sống mà không kẻ thù nào hiểu được, dập xóa được.
Và tôi tin, dự án “Vườn Mẹ” sẽ thành hiện thực trong một ngày không xa nữa. Ngày ấy, tất cả chúng ta sẽ cùng có mặt trên vùng cát cháy nay đã bật sáng những nụ chồi xanh tươi của cuộc sống, sẽ vươn cao lên những hàng dương của lòng biết ơn và ý chí quyết sống.
Vâng, phải quyết sống còn để có được hạnh phúc, đó là Bình Dương. Đó là Sơn Mỹ. Đó là Việt Nam.
Bình luận (0)