Lắt léo chữ nghĩa

Xích lô, từ đâu tới?

26/10/2024 07:00 GMT+7

Nhiều người biết từ "xích lô" có nguồn gốc từ chữ cyclo trong tiếng Pháp, song ở nước Pháp người ta không sử dụng thuật ngữ cyclo mà dùng những từ khác để chỉ xe "xích lô".

Xích lô là loại xe 3 bánh vận hành bằng sức người (sử dụng bàn đạp), do Pierre Coupeaud (người Pháp) chế tạo thử nghiệm tại Paris vào đầu những năm 1930 với tên gọi ban đầu là tri-porteur, sau đó Coupeaud đem loại xe này vào Campuchia năm 1935, gọi chúng là cyclo-pousse. Năm 1939, Coupeaud tổ chức một chuyến đi từ Phnom Penh tới Sài Gòn bằng cyclo-pousse do 2 người thay phiên nhau lái. Về sau người Việt gọi loại xe này đơn giản là "xích lô" (cyclo).

Tuy nhiên, Pierre Coupeaud không phải là người phát minh xe xích lô đạp đầu tiên trên thế giới, bởi vì loại xe này được chế tạo vào những năm 1880, có nguồn gốc từ xe kéo ở Nhật Bản. Đến năm 1929, xích lô được sử dụng rộng rãi tại Singapore (David Edgerton (2011). The Shock of the Old: Technology and Global History Since 1900. Oxford University Press. p.46).

Thuật ngữ cyclo trong tiếng Pháp và Anh là từ Latin hóa của kyklos trong tiếng Hy Lạp - một từ có nghĩa là "bánh xe, vòng, vòng tròn". Tùy theo quốc gia, xe xích lô có nhiều tên gọi tương ứng. Người Pháp gọi là vélo-taxi (hoặc vélotaxi); Bồ Đào Nha gọi là ciclorriquixá, ecotáxi, riquixá hay riquexó…; Tây Ban Nha gọi là bicitaxi, tricitaxi và những tên khác; còn người Nga gọi là Veloríksha (Велори́кша) hay Velotaksi (Велотакси)…

Trong tiếng Anh-Mỹ, cách gọi xe xích lô phổ biến nhất là cycle rickshaw, ngoài ra còn gọi là pedicab hay bike taxi (tùy theo địa phương); riêng ở Mexico, từ bicitaxitaxi ecologico thường dùng để chỉ loại xe xích lô trông khá giống xe Fahrradtaxi (hay Fahrradrikscha) của người Đức. Loại fietstaxi ở Hà Lan và Bỉ cũng có nguồn gốc từ nước Đức.

Ở châu Á, người Trung Quốc gọi xe xích lô là Tam luân xa (三轮车: xe ba bánh), song cái tên này còn dùng để chỉ xe điện và xe trẻ em, kể cả xe vệ sinh và chở rác; người Nhật gọi chung là jitensha takushi (自転車タクシー) - một loại xe 2 bánh hoặc 3 bánh vận chuyển bằng sức người; tuy nhiên tương ứng nhất với xe xích lô là wa taku (輪タク), loại xe được tạo ra vào đầu thời kỳ Đại Chính (Taisho, 1912 - 1926).

Ở Ấn Độ, xe xích lô được gọi là rikisha (रिकिशा) trong tiếng Hindi, một từ có nghĩa là xe kéo có bàn đạp, sử dụng sức người. Còn người Indonesia gọi là becak, dựa vào từ 馬車 hoặc 马车 (bé-chhia) trong tiếng Phúc Kiến, nghĩa là "xe ngựa", song becak thực chất lại rất giống xe xích lô và xe lôi ở VN.

Ở Malaysia, có loại xe beca, viết theo tiếng Java là বিচা, một loại xe ba bánh có nguồn gốc từ lanca - xe 2 bánh do người kéo phổ biến ở Trung Quốc trong vài thế kỷ trước. Người Myanmar gọi xe xích lô là sitekarr ( - / ), phát âm theo từ sidecar (xe có thùng bên) trong tiếng Anh.

Nhìn chung, nửa sau thế kỷ 20, xe xích lô có thiết kế đa dạng, xuất hiện nhiều nơi trên thế giới, kể cả châu Âu và châu Mỹ (như một phương tiện giải trí cho khách du lịch). Có loại người lái ngồi trước hành khách để đạp xe (như ở Ấn Độ, Bangladesh, Trung Quốc); loại người lái ngồi sau hành khách như ở Campuchia, Indonesia, Malaysia và VN (ở miền Tây VN có loại "xe lôi", người lái ngồi trước hành khách); riêng tại Myanmar, Philippines và Singapore thì hành khách thường ngồi trong thùng xe bên cạnh tài xế.

Chỉ có VN và Campuchia mới gọi là xích lô, dựa vào chữ cyclo trong tiếng Pháp - người Campuchia gọi là ស៊ីក្លូ (xich-lo). Ngoài xích lô đạp, còn loại xích lô máy, sử dụng xăng hoặc điện (pin sạc).


Top

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.